Phật pháp ứng dụng Tết Định Dậu

Tết đi tết đến đã bao lần,
Chồng chất tuổi đời khổ cái thân, 
Đinh Dậu trở về thêm tàn sức, 
Bính Thân tạm biệt lại yếu chân.

Tọa thiền bái sám lưng nhức mỏi,
Niệm Phật trì kinh cẳng tê đần.
Vũ trụ xoay vần không ngừng nghỉ,
Thu tàn đông đến lại sang xuân.

Sang xuân thử nghiệm cuộc thế coi, 
Đấm đá với nhau chục năm trời, 
Đứa lớn u đầu, tâm bệnh hoạn, 
Nhóc con gãy cẳng, trí thụt lùi.

Sức tàn lực tận đòi gánh núi,
Trí thiển ý cùn muốn úp voi.
Vẽ rắn thêm chân coi cũng chán,
Mừng xuân Đinh Dậu chẳng gì vui?!

Xem thêm:

Tết Định Dậu

Phật pháp ứng dụng Tết Định Dậu

Tết đi tết đến đã bao lần,
Chồng chất tuổi đời khổ cái thân, 
Đinh Dậu trở về thêm tàn sức, 
Bính Thân tạm biệt lại yếu chân.

Tọa thiền bái sám lưng nhức mỏi,
Niệm Phật trì kinh cẳng tê đần.
Vũ trụ xoay vần không ngừng nghỉ,
Thu tàn đông đến lại sang xuân.

Sang xuân thử nghiệm cuộc thế coi, 
Đấm đá với nhau chục năm trời, 
Đứa lớn u đầu, tâm bệnh hoạn, 
Nhóc con gãy cẳng, trí thụt lùi.

Sức tàn lực tận đòi gánh núi,
Trí thiển ý cùn muốn úp voi.
Vẽ rắn thêm chân coi cũng chán,
Mừng xuân Đinh Dậu chẳng gì vui?!

Xem thêm:
Đọc thêm..

Ngồi buồn nhớ lại tuổi thơ
Với bao kỷ niệm xa xưa trong lòng: 
Tháng Giêng là tháng hành hương, 
Người đi như nước tưng bừng xiết bao!

Tháng Tư chiều đổ mưa rào 
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ 
Bên anh cuốc đất, đắp bờ
Bên em soi ếch đặt lờ dưới khe.

Tháng Sáu nghe quốc gọi hè 
Trẻ con nghỉ học lên đê thả diều 
Thu về tháng Tám quạnh hiu,
Chợ mai tan sớm, đò chiều vắng đưa.

Khoan thai trên mấy ngọn dừa 
Tiếng con cu đất ru trưa ruộng đồng 
Tháng Mười nhạn báo tin đông
Nhấp nhô thuyền lượn trên dòng nước sâu.

Mẹ ngồi tựa cửa vá khâu
Áo cha năm tháng bạc mầu nắng mưa 
Mười Hai là tháng ước mơ
Đến mùa gặt lúa cũng vừa cuối năm.

Tết về thiên hạ lăng xăng
Trang hoàng sắm sửa khang trang cửa nhà 
Đó là truyền thống dân ta
Nghìn năm tôi vẫn thiết tha giữ gìn.

Xem thêm:

Quê tôi bốn mùa


Ngồi buồn nhớ lại tuổi thơ
Với bao kỷ niệm xa xưa trong lòng: 
Tháng Giêng là tháng hành hương, 
Người đi như nước tưng bừng xiết bao!

Tháng Tư chiều đổ mưa rào 
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ 
Bên anh cuốc đất, đắp bờ
Bên em soi ếch đặt lờ dưới khe.

Tháng Sáu nghe quốc gọi hè 
Trẻ con nghỉ học lên đê thả diều 
Thu về tháng Tám quạnh hiu,
Chợ mai tan sớm, đò chiều vắng đưa.

Khoan thai trên mấy ngọn dừa 
Tiếng con cu đất ru trưa ruộng đồng 
Tháng Mười nhạn báo tin đông
Nhấp nhô thuyền lượn trên dòng nước sâu.

Mẹ ngồi tựa cửa vá khâu
Áo cha năm tháng bạc mầu nắng mưa 
Mười Hai là tháng ước mơ
Đến mùa gặt lúa cũng vừa cuối năm.

Tết về thiên hạ lăng xăng
Trang hoàng sắm sửa khang trang cửa nhà 
Đó là truyền thống dân ta
Nghìn năm tôi vẫn thiết tha giữ gìn.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Ðàn én bốn phương bay về, đem lại cho trần gian tin xuân vui đầm ấm. Ánh triều dương sắc vàng rực rỡ, lần lần lan rộng, phá tan màu khói sương vẩn màu sửa đục của buổi bình minh. Ðôi hàng cây bên vệ đường đã trút sạch lớp áo vàng để thay vào những mầm non mập mạnh. Ngọn gió đông dịu mát đầy sinh khí, nhẹ nhàng thổi lướt trên đám cỏ xanh. Thành Thất La Phiệt vào buổi mai, âm thanh tràn ngập vẻ thanh hòa đáng mến.

Phút chốc vầng hồng đã lên cao. Trên con đường lớn quanh co hướng dẫn vào thành, một đoàn Sa môn có hơn nghìn người, đi nối tiếp nhau như con rồng lượn khúc. Các Tăng sĩ, vị nào cũng có vẻ điềm tĩnh đoan trang, nhìn xuống lặng lẽ bước, dáng đi xem tự tại thoát trần. Dẫn đầu là một bực Tôn túc, thân xác vàng ánh, tướng tốt trang nghiêm, đi chậm rãi oai nghi như voi chúa. Sau đấng ấy một vị Tỳ kheo trẻ tuổi ôm bát theo hầu. 


Phật pháp ứng dụng Tỉnh giấc mơ hoa

Ðấy là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng thị giả A Nan và chư Tăng vào thành khất thực. Bấy giờ, những người có lòng tin ngôi Tam Bảo, muốn gieo trồng giống phước, đem thức ngon vật lạ cúng dường Phật và chúng Tăng. Lại có kẻ không dâng cúng, nhưng thấy dáng điệu trang nghiêm siêu thoát của đấng Ðiều Ngự và các Ðại Ðức Tỳ kheo, cũng họp nhau đứng nơi cửa trông ra, hoặc đứng bên đường để nhìn ngắm.

Từ nơi cửa sổ trên lầu cao, nàng Ma Ðăng Dà một bậc tài sắc trong thành Thất La Phiệt, nghe tiếng động, khẽ vén bức màn thêu, đưa mặt nhìn xuống. Nhưng sống với hương tình vị ái của tuổi xuân, nàng làm sao nhận thức được sự giải thoát đức thanh cao nơi các nhà tu sĩ. Trông qua lớp áo hoại sắc của những vị Sa môn, nhìn lại y phục sa hoa lộng lẫy nơi thân mình, nàng tự thấy phong lưu sang trọng. Rồi kêu hãnh, nàng điểm trên môi một nụ cười. 

Nhưng bỗng ngạc nhiên, Ma Ðăng Dà chăm chú nhìn vị Tỳ kheo trẻ tuổi đứng hầu sau Ðức Phật. Ôi! giữa trần gian này sao lại có trang nam nhân đẹp đến thế? Nàng tự nghĩ thầm nếu được cùng người này chung hưởng được trăm năm, dù phải nghèo nàn, khổ nhọc, ta cũng ưng lòng, không còn ước mong gì hơn nữa! Mắt vẫn nhìn, trí mãi suy nghĩ, Ðức Phật và chư Tăng đi khuất từ lúc nào, nàng Ma Ðăng Dà còn ngồi ngơ ngẩn dường như không hay. Ðến chừng định thần lại, nhìn ra khoảng đường vắng vẻ, nàng buông một hơi thở dài, trên mặt lộ đầy vẻ bâng khuâng nhớ tiếc…

Không rõ A Nan xinh đẹp thế nào, mà Ðức Phật không cho ông mặc áo trần vai, vì sợ hàng phụ nữ trông thấy động tình. Và Ngài Văn Thù Bồ Tát từng khen tặng ông rằng: “Mặt như vầng nguyệt sáng, mắt tợ cánh sen tươi.” Thế thì cô mỹ nữ kia yêu mến ông, điều ấy cũng không lấy chi làm lạ.

Nàng Ma Ðăng Dà từ khi trông thấy A Nan mối tình si dường như vấn vương khó dứt. Mỗi ngày, nàng thường lên lầu, trông ra cửa sổ, chờ chư Tăng đi khất thực, mong sao cho được thấy mặt người yêu. Sống trong tình khát ái khó tỏ nỗi lòng, Ma Ðăng Dà tâm thần ngơ ngẩn, quên ăn uống, biếng nói cười, gương mặt xinh tươi lần lần hóa ra tiều tụy. 

Thân mẫu nàng thấy con có những trạng thái bất thường như thế, sinh nghi đôi ba phen gạn hỏi. Không thể che giấu, nàng phải đem sự thật tỏ bày và van xin mẹ làm thế nào cho mình khỏi thất vọng. Nghe xong, mẹ nàng lộ vẻ ngậm ngùi bảo: “Con ơi! Ðiều con muốn khó thể thực hiện được. A Nan là người hầu cận thân tín của ông Cù Ðàm ông ấy và những Sa môn đệ tử của ông có nhiều phép thần thông kỳ diệu. Những bậc cao đức trong hàng lục sư còn phải nhường họ, thì mẹ đâu có tài gì làm thỏa nguyện cho con. 

Hơn nữa, A Nan là người thuộc dòng tôn quý, con của ông Hộc Phạn Vương, nếu không xuất gia, có lẽ y thay thế cho thái tử Tất Ðạt Ða là vua trong một nước, mẹ con ta là phận thấp đâu mong gì sánh được với người. Thôi con hãy xóa bỏ những ý nghĩ ấy và khuây khỏa nỗi sầu khổ để cho mẹ vui lòng. Mất A Nan này sẽ có A Nan khác, trong bốn phương thiên hạ lẽ không tìm được một người đẹp như thế hay sao?” Nghe mẹ nói, tuy lặng yên không đáp, song nàng Ma Ðăng Dà thật trăm phần đau đớn. Trước kia, một tia hy vọng lập loè trong trí, nay hiểu qua mọi nổi khó khăn, nàng tự cảm thấy như rơi vào cõi âm u ghê sợ.

Tâm tư tràn ngập nổi buồn thương thất vọng, nàng thầm than: “Thôi, thế là hết! Ðời ta đã đến giai đoạn kết cuộc từ hôm nay…”
Thế là bệnh của Ma Ðăng Dà mỗi ngày một nặng. Trong cơn mơ thấy A Nan đi đến, nàng vô cùng mừng rỡ, vội chạy đến choàng vai, nhưng vị Tỳ kheo trẻ tuổi nhẹ nhàng thoát khỏi tay nàng rồi biến mất; nàng cất tiếng khóc to lên thì vừa thức giấc… Thân mẫu nàng thấy con khi mê khi tỉnh, thoạt khóc thoạt cười, lấy làm buồn rầu lo lắng, một mặt khuyên dỗ, một mặt chạy chữa đủ thứ thuốc thang, song vẫn không hiệu quả.

Một buổi sáng tà dương đang tiết trời dìu dịu, gió bên ngoài nhẹ thổi động bức rèm thêu đùa không khí trong mát vào phòng; cơn sốt như được giảm bớt, Ma Ðăng Dà lặng lẽ thức tỉnh. Nhìn lạy thân hình vỏ vàng gầy héo, lộ vẻ chua cay, nàng nhẹ nhếch một nụ cười. Nhưng vừa khi ấy nàng bỗng ngạc nhiên, vì nhận thấy hôm nay trong phòng trang hoàng rất sạch sẽ. 

Ðối diện nàng bức họa: “Vườn xuân dưới nắng mai” được treo lên với vẻ mỹ thuật. Và, chiếc lọ thủy tinh cắm đầy hoa tươi, ai đã đem đến đây để ngay ngắn giữa mặt bàn như tấm thảm màu xanh da tươi. Ðể ý trông qua khe cửa, Ma Ðăng Dà thấy mẹ đang ngồi tiếp chuyện với một vị đạo sĩ râu tóc bạc phơ, vầng trán sáng suốt, nét mặt trầm ngâm. Hai người nói gì nàng không nghe rõ, nhưng hình như xem mẹ nàng có vẻ chú trọng lắm, Ma Ðăng Dà chưa hiểu, còn đang nằm yên suy nghĩ, thì nghe có tiếng giày của mẹ đi nhẹ vào phòng. 

Nàng nhắm mắt giả vờ như không hay biết, tiếng giày đi lại bên giường chợt im bặt hồi lâu, thốt nhiên nàng cảm thấy bàn tay từ mẫu đặt lên trán mình và tiếp theo đấy, nối liền một giọng đều đều êm dịu: “Con ơi! Chớ nên buồn rầu! Con là lẽ sống duy nhất của mẹ; với lòng quý mến con, mẹ có thể hy sinh tất cả hạnh phúc trên đời. Vì thế vừa rồi mẹ có mời được một đạo sĩ danh tiếng, ông đã truyền cho mẹ bài mật ngữ “Ta Tì La Phạm Thiên chú.” 

Theo lời ông mật ngữ có năng lực mê hoặc người, dù người ấy đạo hạnh đã đến mức cao siêu. Nếu học thuộc thần chú này, con có thể thực hiện nguyện vọng của mình bằng cách mê hoặc A Nan, khiến cho y mất sức tự chủ và hoàn toàn bị sai sử tùy theo ý con muốn.” 

Máu nóng chảy rần rật trong huyết quản, Ma Ðăng Dà như cảm thấy có một nguồn sinh lực mầu nhiệm làm cho nàng mạnh mẽ hơn hồi chưa bệnh, sau khi nghe được mấy lời ấy; gương mặt tươi tỉnh hẳn lên, nàng nói với giọng run run vì sung sướng, cảm động: “Thật thế hở mẹ? Nếu vậy bệnh con sẽ lành và con không còn lo buồn gì nữa!” Rồi nàng trỗi dậy gọn gàng như người vô sự.

Nửa tháng sau, khi sức khẻo gần bình phục, Ma Ðăng Dà đã thuộc làu làu bài mật ngữ. Nàng còn chờ một thời gian ngắn cho trong người thật mạnh sẽ thi hành ý nguyện, lòng chứa chan hy vọng, tin chắc thế nào mình cũng đắc thắng bằng hai lợi khí: nhan sắc và thần chú nhiệm mầu. Rồi, một buổi sớm mai, nàng trang sức rất đẹp, sắm sẵn những thức cúng dường để gợi ý trung nhân. 

Nhưng bóng ác càng cao, Ma Ðăng Dà càng nhìn trông mỏi mắt và cuối cùng phải thất vọng, vì đã quá ngọ mà vẫn vắng bóng hành khất của chư Tăng. Hoài công chờ đón như thế đến bốn năm hôm, hỏi ra nàng mới biết lúc này vào đầu mùa mưa, chư Tăng theo lệ thường mỗi năm phải ăn cư một chỗ trong vòng ba tháng. Nghe được tin ấy, nàng âu sầu khổ não, song cũng phải dằn lòng đợi dịp, không biết phải làm thế nào.

Lá tươi rồi héo, hoa nở rồi tàn, cảnh vật âm thầm biến chuyển mau lẹ theo cánh thời gian, thấm thoát đã đến ngày chư Tăng mãn hạ. Ðối với nàng Ma Ðăng Dà, ba tháng thật là mấy năm trường đằng đẵng! Nhưng việc sẽ đến tất phải đến, hôm nay nàng sẽ cảm thấy sống dậy một mùa xuân tươi đẹp mùa xuân ở cõi lòng. 

Từ sáng sớm, những thức cúng dường đã được sắp đặt đâu vào đấy. Công việc xong xuôi, Ma Ðăng Dà đến trước gương trang điểm, vừa đọc nhẩm mấy câu Phạm chú. Vẻ vui tươi đắc ý hiện rõ trên mặt nàng. Giai nhân lồng bóng trong gương, hai dáng xinh đẹp in nhau, phưởng phất như cành hoa Tịnh Ðế. Khi ánh nắng mai chiếu vào song cửa, trên con đường vào thành, hình dáng của đoàn Sa Môn đi khất thực lần lần lộ rõ và cũng lại gần, Ma Ðăng Dà vô cùng mừng rỡ, định thỉnh riêng ông A Nan đến trước nhà để tiện bề dùng huyển thuật. 

Nhưng lần này nàng rất ngạc nhiên, vì không thấy vị Tỳ kheo trẻ tuổi theo hầu Ðức Phật. Thêm một điều lạ: chư Tăng cùng đi thẳng, không dừng lại từng nhà để thọ cúng như mọi khi. Ma Ðăng Dà để ý nhìn từng vị Sa Môn lần lượt đi qua, nhưng cũng không thấy người mình muốn gặp. Mỗi nỗi buồn vô tả xâm chiếm tâm nàng, khi vị Sa Môn cuối cùng vừa đi khuất. 

Nàng để rơi mình xuống ghế, hai tay bưng mặt, choáng váng cả tâm thần. Không biết ngồi như thế được bao lâu, khi ngước đầu lên, Ma Ðăng Dà chợt thấy từ xa tiến đến một hình dáng quen thuộc. Nàng mở to đôi mắt nhìn kỹ người ấy không ai đâu lạ, chính là vị Tỳ kheo trẻ tuổi mà nàng đã thương nhớ từ lâu. Lòng rạo rực, nỗi vui mừng không thể tưởng tượng, nàng vội vả đứng dậy đón chờ.

Tại sao lại có việc như thế? Nguyên  vào  lúc  các  thầy Tỳ  kheo  mãn  hạ,  nhân  ngày kỵ phụ vương Ba Tư Nặc sắm những thức ăn quí lạ, mời Phật và chư Tăng thọ trai trong hoàng cung. Ðức Thế Tôn thân lãnh các vị Tỳ kheo thẳng đến cung vua để ứng cúng, nên không theo thường lệ đi từng nhà khất thực. 

Duy có ông A Nan trước đã chịu người mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng trai chung. Vì về trễ, ông đi giữa đường một mình. Nhớ lời Ðức Phật đã quở Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp và Tu Bồ Ðề làm A La Hán tâm không quân bình, ông kính vâng lời dạy vô giá của đấng Ðiều Ngự, ôm bát theo thứ lớp ghé vào từng nhà, kính giữ phép hoá trai.

Khi A Nan đi đến, nàng Ma Ðăng Dà đem thức ăn ra cúng dường đồng thời gọi thầm tên vị Tỳ kheo trẻ tuổi và đọc mấy câu Phạm chú, đoạn nàng xây lưng trở vào nhà.

Tay chân bủn rủn, thần trí không định, A Nan cũng nối gót theo sau. Lúc hai người đã vào đến phòng, như cây héo gặp mùa xuân, Ma Ðăng Dà giở đủ trò khêu gợi quyết tâm làm nổi dậy ngọn sóng tình trong con người tịnh hạnh. Trong giờ phút nguy hiểm ấy; tuy bất lực, song cũng còn tỉnh trí, A Nan tha thiết tưởng nghĩ: “Hỡi Ðức Từ Nghiêm! Nay con bị nạn, Ngài đành bỏ con sao?”.

Khi ấy Ðức Như Lai thọ trai xong, đã về đến tịnh xá và đang ngồi thuyết pháp giữa vô số thính chúng. Ðấng Từ Nghiêm trí tuệ thần thông nghe thấy ông A Nan mắc nạn, liền từ nơi nhục kế trên đảnh, phóng ánh sáng trăm thứ báu rất tự tại nhiệm mầu. Trong ánh sáng có vô số hóa Phật, mỗi vị đều ngồi trên toà sen nghìn cánh, đồng thời nói ra thần chú bí mật. 

Ðức Như Lai khiến Ngài Văn Thù phụng trì chú ấy, đến dẹp trừ tà chú đem ông A Nan về. Ngài Văn Thù vâng lời đến, phóng áng sáng nói lại thần chú bí mật. Bấy giờ ông A Nan tâm trí sáng suốt, như cá đã thoát khỏi lướt, vụt chạy ra ngoài. Chưa được thỏa nguyện, bỗng mất người yêu, Ma Ðăng Dà cũng chạy theo A Nan tâm trạng như người cuồng dại. 

Khi ba người đã đến Tịnh xá, lòng si ái quá nặng, Ma Ðăng Dà sầu khổ bạch với Phật: “Xin Ngài trả ông A Nan lại cho tôi”. Ðức Phật mỉm cười, dùng phương tiện bảo: “A Nan là kẻ xuất gia, nàng là thế tục, hình thức và đời sống của đôi bên đều khác, thế thì làm sao gần gũi nhau được? Nếu nàng chịu cạo tóc, mặc áo cà sa, ta sẽ giao A Nan lại cho.” Trước tiên, Ma Ðăng Dà còn dùng dằng, nhưng bị ái tình làm mù quáng, đã thương trót phải liều, nàng nghĩ thầm: “Nếu Phật không giữ lời hứa, ta sẽ nắm áo Ngài và ông A Nan.”

Nghĩ như thế nàng liền ưng thuận, sau khi đã thành hình thức xuất gia, Ma Ðăng Dà lập lại yêu cầu khi trước, Ðức Phật không đáp hỏi lại:
- Nàng thương A Nan vì chỗ nào?
- Tôi thương đôi mắt xinh đẹp của ông. Mắt của A Nan chỉ là hai khối thịt hôi, trong ấy chứa những nước mắt, ghèn dơ, có chỗ nào tinh sạch đặng cho nàng mến?
- Tôi thương cái mũi ông A Nan.
- Mũi của ông ấy có những chất nhớp bên trong và thường chảy ra thứ nước không sạch, nàng chẳng nên ưa thích.
- Tôi thương cái miệng ông A Nan.
- Miệng  của  A  Nan  có những nước miếng, đờm, dãi, nếu ông ấy không năng súc rửa, nơi đó sẽ đóng cáu bợn và tiết ra mùi hôi. Thế thì không đáng cho nàng yêu chuộng.

Sau khi đánh tan những chỗ ái chấp của Ma Ðăng Dà, Ðức Phật lại vì nàng giải thích, chỉ rõ thân người không sạch, mong manh chóng suy tàn, là nguyên nhân của sự đau buồn trong hiện tại và vô lượng nỗi khổ về sau.

Nghe lời chánh chơn hợp lý của Ðức Phật, như người trong bóng tối chợt bắt gặp ánh sáng, Ma Ðăng Dà đứng lặng suy nghĩ. Trước kia nàng lầm tưởng ái tình là vườn hoa tươi đẹp, đầy màu sắc rực rỡ, hương vị thơm tho, nơi ấy hẳn hứa hẹn cho thế gian một diễm phúc tuyệt trần. Nhưng hôm nay nhìn sâu vào thực tế, nàng mới biết nó là một mũi gai độc ẩn núp dưới lớp lá xanh; một sợi dây vô hình lôi kéo người vào ngục tối đau khổ. 

Tỉnh Giấc Mơ Hoa, nàng quan sát những lý: bất tịnh, khổ không, vô thường, vô ngã của Ðức Phật vừa khai thị, liền chứng được quả A Na Hàm. Vừa mừng rỡ vừa tủi thẹn, nàng cúi xuống đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin trọn đời làm đệ tử và phát nguyện sẽ dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi vòng hoa mộng, vào bản thể an vui trong sạch…

Xem thêm:

Tỉnh giấc mơ hoa

Ðàn én bốn phương bay về, đem lại cho trần gian tin xuân vui đầm ấm. Ánh triều dương sắc vàng rực rỡ, lần lần lan rộng, phá tan màu khói sương vẩn màu sửa đục của buổi bình minh. Ðôi hàng cây bên vệ đường đã trút sạch lớp áo vàng để thay vào những mầm non mập mạnh. Ngọn gió đông dịu mát đầy sinh khí, nhẹ nhàng thổi lướt trên đám cỏ xanh. Thành Thất La Phiệt vào buổi mai, âm thanh tràn ngập vẻ thanh hòa đáng mến.

Phút chốc vầng hồng đã lên cao. Trên con đường lớn quanh co hướng dẫn vào thành, một đoàn Sa môn có hơn nghìn người, đi nối tiếp nhau như con rồng lượn khúc. Các Tăng sĩ, vị nào cũng có vẻ điềm tĩnh đoan trang, nhìn xuống lặng lẽ bước, dáng đi xem tự tại thoát trần. Dẫn đầu là một bực Tôn túc, thân xác vàng ánh, tướng tốt trang nghiêm, đi chậm rãi oai nghi như voi chúa. Sau đấng ấy một vị Tỳ kheo trẻ tuổi ôm bát theo hầu. 


Phật pháp ứng dụng Tỉnh giấc mơ hoa

Ðấy là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng thị giả A Nan và chư Tăng vào thành khất thực. Bấy giờ, những người có lòng tin ngôi Tam Bảo, muốn gieo trồng giống phước, đem thức ngon vật lạ cúng dường Phật và chúng Tăng. Lại có kẻ không dâng cúng, nhưng thấy dáng điệu trang nghiêm siêu thoát của đấng Ðiều Ngự và các Ðại Ðức Tỳ kheo, cũng họp nhau đứng nơi cửa trông ra, hoặc đứng bên đường để nhìn ngắm.

Từ nơi cửa sổ trên lầu cao, nàng Ma Ðăng Dà một bậc tài sắc trong thành Thất La Phiệt, nghe tiếng động, khẽ vén bức màn thêu, đưa mặt nhìn xuống. Nhưng sống với hương tình vị ái của tuổi xuân, nàng làm sao nhận thức được sự giải thoát đức thanh cao nơi các nhà tu sĩ. Trông qua lớp áo hoại sắc của những vị Sa môn, nhìn lại y phục sa hoa lộng lẫy nơi thân mình, nàng tự thấy phong lưu sang trọng. Rồi kêu hãnh, nàng điểm trên môi một nụ cười. 

Nhưng bỗng ngạc nhiên, Ma Ðăng Dà chăm chú nhìn vị Tỳ kheo trẻ tuổi đứng hầu sau Ðức Phật. Ôi! giữa trần gian này sao lại có trang nam nhân đẹp đến thế? Nàng tự nghĩ thầm nếu được cùng người này chung hưởng được trăm năm, dù phải nghèo nàn, khổ nhọc, ta cũng ưng lòng, không còn ước mong gì hơn nữa! Mắt vẫn nhìn, trí mãi suy nghĩ, Ðức Phật và chư Tăng đi khuất từ lúc nào, nàng Ma Ðăng Dà còn ngồi ngơ ngẩn dường như không hay. Ðến chừng định thần lại, nhìn ra khoảng đường vắng vẻ, nàng buông một hơi thở dài, trên mặt lộ đầy vẻ bâng khuâng nhớ tiếc…

Không rõ A Nan xinh đẹp thế nào, mà Ðức Phật không cho ông mặc áo trần vai, vì sợ hàng phụ nữ trông thấy động tình. Và Ngài Văn Thù Bồ Tát từng khen tặng ông rằng: “Mặt như vầng nguyệt sáng, mắt tợ cánh sen tươi.” Thế thì cô mỹ nữ kia yêu mến ông, điều ấy cũng không lấy chi làm lạ.

Nàng Ma Ðăng Dà từ khi trông thấy A Nan mối tình si dường như vấn vương khó dứt. Mỗi ngày, nàng thường lên lầu, trông ra cửa sổ, chờ chư Tăng đi khất thực, mong sao cho được thấy mặt người yêu. Sống trong tình khát ái khó tỏ nỗi lòng, Ma Ðăng Dà tâm thần ngơ ngẩn, quên ăn uống, biếng nói cười, gương mặt xinh tươi lần lần hóa ra tiều tụy. 

Thân mẫu nàng thấy con có những trạng thái bất thường như thế, sinh nghi đôi ba phen gạn hỏi. Không thể che giấu, nàng phải đem sự thật tỏ bày và van xin mẹ làm thế nào cho mình khỏi thất vọng. Nghe xong, mẹ nàng lộ vẻ ngậm ngùi bảo: “Con ơi! Ðiều con muốn khó thể thực hiện được. A Nan là người hầu cận thân tín của ông Cù Ðàm ông ấy và những Sa môn đệ tử của ông có nhiều phép thần thông kỳ diệu. Những bậc cao đức trong hàng lục sư còn phải nhường họ, thì mẹ đâu có tài gì làm thỏa nguyện cho con. 

Hơn nữa, A Nan là người thuộc dòng tôn quý, con của ông Hộc Phạn Vương, nếu không xuất gia, có lẽ y thay thế cho thái tử Tất Ðạt Ða là vua trong một nước, mẹ con ta là phận thấp đâu mong gì sánh được với người. Thôi con hãy xóa bỏ những ý nghĩ ấy và khuây khỏa nỗi sầu khổ để cho mẹ vui lòng. Mất A Nan này sẽ có A Nan khác, trong bốn phương thiên hạ lẽ không tìm được một người đẹp như thế hay sao?” Nghe mẹ nói, tuy lặng yên không đáp, song nàng Ma Ðăng Dà thật trăm phần đau đớn. Trước kia, một tia hy vọng lập loè trong trí, nay hiểu qua mọi nổi khó khăn, nàng tự cảm thấy như rơi vào cõi âm u ghê sợ.

Tâm tư tràn ngập nổi buồn thương thất vọng, nàng thầm than: “Thôi, thế là hết! Ðời ta đã đến giai đoạn kết cuộc từ hôm nay…”
Thế là bệnh của Ma Ðăng Dà mỗi ngày một nặng. Trong cơn mơ thấy A Nan đi đến, nàng vô cùng mừng rỡ, vội chạy đến choàng vai, nhưng vị Tỳ kheo trẻ tuổi nhẹ nhàng thoát khỏi tay nàng rồi biến mất; nàng cất tiếng khóc to lên thì vừa thức giấc… Thân mẫu nàng thấy con khi mê khi tỉnh, thoạt khóc thoạt cười, lấy làm buồn rầu lo lắng, một mặt khuyên dỗ, một mặt chạy chữa đủ thứ thuốc thang, song vẫn không hiệu quả.

Một buổi sáng tà dương đang tiết trời dìu dịu, gió bên ngoài nhẹ thổi động bức rèm thêu đùa không khí trong mát vào phòng; cơn sốt như được giảm bớt, Ma Ðăng Dà lặng lẽ thức tỉnh. Nhìn lạy thân hình vỏ vàng gầy héo, lộ vẻ chua cay, nàng nhẹ nhếch một nụ cười. Nhưng vừa khi ấy nàng bỗng ngạc nhiên, vì nhận thấy hôm nay trong phòng trang hoàng rất sạch sẽ. 

Ðối diện nàng bức họa: “Vườn xuân dưới nắng mai” được treo lên với vẻ mỹ thuật. Và, chiếc lọ thủy tinh cắm đầy hoa tươi, ai đã đem đến đây để ngay ngắn giữa mặt bàn như tấm thảm màu xanh da tươi. Ðể ý trông qua khe cửa, Ma Ðăng Dà thấy mẹ đang ngồi tiếp chuyện với một vị đạo sĩ râu tóc bạc phơ, vầng trán sáng suốt, nét mặt trầm ngâm. Hai người nói gì nàng không nghe rõ, nhưng hình như xem mẹ nàng có vẻ chú trọng lắm, Ma Ðăng Dà chưa hiểu, còn đang nằm yên suy nghĩ, thì nghe có tiếng giày của mẹ đi nhẹ vào phòng. 

Nàng nhắm mắt giả vờ như không hay biết, tiếng giày đi lại bên giường chợt im bặt hồi lâu, thốt nhiên nàng cảm thấy bàn tay từ mẫu đặt lên trán mình và tiếp theo đấy, nối liền một giọng đều đều êm dịu: “Con ơi! Chớ nên buồn rầu! Con là lẽ sống duy nhất của mẹ; với lòng quý mến con, mẹ có thể hy sinh tất cả hạnh phúc trên đời. Vì thế vừa rồi mẹ có mời được một đạo sĩ danh tiếng, ông đã truyền cho mẹ bài mật ngữ “Ta Tì La Phạm Thiên chú.” 

Theo lời ông mật ngữ có năng lực mê hoặc người, dù người ấy đạo hạnh đã đến mức cao siêu. Nếu học thuộc thần chú này, con có thể thực hiện nguyện vọng của mình bằng cách mê hoặc A Nan, khiến cho y mất sức tự chủ và hoàn toàn bị sai sử tùy theo ý con muốn.” 

Máu nóng chảy rần rật trong huyết quản, Ma Ðăng Dà như cảm thấy có một nguồn sinh lực mầu nhiệm làm cho nàng mạnh mẽ hơn hồi chưa bệnh, sau khi nghe được mấy lời ấy; gương mặt tươi tỉnh hẳn lên, nàng nói với giọng run run vì sung sướng, cảm động: “Thật thế hở mẹ? Nếu vậy bệnh con sẽ lành và con không còn lo buồn gì nữa!” Rồi nàng trỗi dậy gọn gàng như người vô sự.

Nửa tháng sau, khi sức khẻo gần bình phục, Ma Ðăng Dà đã thuộc làu làu bài mật ngữ. Nàng còn chờ một thời gian ngắn cho trong người thật mạnh sẽ thi hành ý nguyện, lòng chứa chan hy vọng, tin chắc thế nào mình cũng đắc thắng bằng hai lợi khí: nhan sắc và thần chú nhiệm mầu. Rồi, một buổi sớm mai, nàng trang sức rất đẹp, sắm sẵn những thức cúng dường để gợi ý trung nhân. 

Nhưng bóng ác càng cao, Ma Ðăng Dà càng nhìn trông mỏi mắt và cuối cùng phải thất vọng, vì đã quá ngọ mà vẫn vắng bóng hành khất của chư Tăng. Hoài công chờ đón như thế đến bốn năm hôm, hỏi ra nàng mới biết lúc này vào đầu mùa mưa, chư Tăng theo lệ thường mỗi năm phải ăn cư một chỗ trong vòng ba tháng. Nghe được tin ấy, nàng âu sầu khổ não, song cũng phải dằn lòng đợi dịp, không biết phải làm thế nào.

Lá tươi rồi héo, hoa nở rồi tàn, cảnh vật âm thầm biến chuyển mau lẹ theo cánh thời gian, thấm thoát đã đến ngày chư Tăng mãn hạ. Ðối với nàng Ma Ðăng Dà, ba tháng thật là mấy năm trường đằng đẵng! Nhưng việc sẽ đến tất phải đến, hôm nay nàng sẽ cảm thấy sống dậy một mùa xuân tươi đẹp mùa xuân ở cõi lòng. 

Từ sáng sớm, những thức cúng dường đã được sắp đặt đâu vào đấy. Công việc xong xuôi, Ma Ðăng Dà đến trước gương trang điểm, vừa đọc nhẩm mấy câu Phạm chú. Vẻ vui tươi đắc ý hiện rõ trên mặt nàng. Giai nhân lồng bóng trong gương, hai dáng xinh đẹp in nhau, phưởng phất như cành hoa Tịnh Ðế. Khi ánh nắng mai chiếu vào song cửa, trên con đường vào thành, hình dáng của đoàn Sa Môn đi khất thực lần lần lộ rõ và cũng lại gần, Ma Ðăng Dà vô cùng mừng rỡ, định thỉnh riêng ông A Nan đến trước nhà để tiện bề dùng huyển thuật. 

Nhưng lần này nàng rất ngạc nhiên, vì không thấy vị Tỳ kheo trẻ tuổi theo hầu Ðức Phật. Thêm một điều lạ: chư Tăng cùng đi thẳng, không dừng lại từng nhà để thọ cúng như mọi khi. Ma Ðăng Dà để ý nhìn từng vị Sa Môn lần lượt đi qua, nhưng cũng không thấy người mình muốn gặp. Mỗi nỗi buồn vô tả xâm chiếm tâm nàng, khi vị Sa Môn cuối cùng vừa đi khuất. 

Nàng để rơi mình xuống ghế, hai tay bưng mặt, choáng váng cả tâm thần. Không biết ngồi như thế được bao lâu, khi ngước đầu lên, Ma Ðăng Dà chợt thấy từ xa tiến đến một hình dáng quen thuộc. Nàng mở to đôi mắt nhìn kỹ người ấy không ai đâu lạ, chính là vị Tỳ kheo trẻ tuổi mà nàng đã thương nhớ từ lâu. Lòng rạo rực, nỗi vui mừng không thể tưởng tượng, nàng vội vả đứng dậy đón chờ.

Tại sao lại có việc như thế? Nguyên  vào  lúc  các  thầy Tỳ  kheo  mãn  hạ,  nhân  ngày kỵ phụ vương Ba Tư Nặc sắm những thức ăn quí lạ, mời Phật và chư Tăng thọ trai trong hoàng cung. Ðức Thế Tôn thân lãnh các vị Tỳ kheo thẳng đến cung vua để ứng cúng, nên không theo thường lệ đi từng nhà khất thực. 

Duy có ông A Nan trước đã chịu người mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng trai chung. Vì về trễ, ông đi giữa đường một mình. Nhớ lời Ðức Phật đã quở Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp và Tu Bồ Ðề làm A La Hán tâm không quân bình, ông kính vâng lời dạy vô giá của đấng Ðiều Ngự, ôm bát theo thứ lớp ghé vào từng nhà, kính giữ phép hoá trai.

Khi A Nan đi đến, nàng Ma Ðăng Dà đem thức ăn ra cúng dường đồng thời gọi thầm tên vị Tỳ kheo trẻ tuổi và đọc mấy câu Phạm chú, đoạn nàng xây lưng trở vào nhà.

Tay chân bủn rủn, thần trí không định, A Nan cũng nối gót theo sau. Lúc hai người đã vào đến phòng, như cây héo gặp mùa xuân, Ma Ðăng Dà giở đủ trò khêu gợi quyết tâm làm nổi dậy ngọn sóng tình trong con người tịnh hạnh. Trong giờ phút nguy hiểm ấy; tuy bất lực, song cũng còn tỉnh trí, A Nan tha thiết tưởng nghĩ: “Hỡi Ðức Từ Nghiêm! Nay con bị nạn, Ngài đành bỏ con sao?”.

Khi ấy Ðức Như Lai thọ trai xong, đã về đến tịnh xá và đang ngồi thuyết pháp giữa vô số thính chúng. Ðấng Từ Nghiêm trí tuệ thần thông nghe thấy ông A Nan mắc nạn, liền từ nơi nhục kế trên đảnh, phóng ánh sáng trăm thứ báu rất tự tại nhiệm mầu. Trong ánh sáng có vô số hóa Phật, mỗi vị đều ngồi trên toà sen nghìn cánh, đồng thời nói ra thần chú bí mật. 

Ðức Như Lai khiến Ngài Văn Thù phụng trì chú ấy, đến dẹp trừ tà chú đem ông A Nan về. Ngài Văn Thù vâng lời đến, phóng áng sáng nói lại thần chú bí mật. Bấy giờ ông A Nan tâm trí sáng suốt, như cá đã thoát khỏi lướt, vụt chạy ra ngoài. Chưa được thỏa nguyện, bỗng mất người yêu, Ma Ðăng Dà cũng chạy theo A Nan tâm trạng như người cuồng dại. 

Khi ba người đã đến Tịnh xá, lòng si ái quá nặng, Ma Ðăng Dà sầu khổ bạch với Phật: “Xin Ngài trả ông A Nan lại cho tôi”. Ðức Phật mỉm cười, dùng phương tiện bảo: “A Nan là kẻ xuất gia, nàng là thế tục, hình thức và đời sống của đôi bên đều khác, thế thì làm sao gần gũi nhau được? Nếu nàng chịu cạo tóc, mặc áo cà sa, ta sẽ giao A Nan lại cho.” Trước tiên, Ma Ðăng Dà còn dùng dằng, nhưng bị ái tình làm mù quáng, đã thương trót phải liều, nàng nghĩ thầm: “Nếu Phật không giữ lời hứa, ta sẽ nắm áo Ngài và ông A Nan.”

Nghĩ như thế nàng liền ưng thuận, sau khi đã thành hình thức xuất gia, Ma Ðăng Dà lập lại yêu cầu khi trước, Ðức Phật không đáp hỏi lại:
- Nàng thương A Nan vì chỗ nào?
- Tôi thương đôi mắt xinh đẹp của ông. Mắt của A Nan chỉ là hai khối thịt hôi, trong ấy chứa những nước mắt, ghèn dơ, có chỗ nào tinh sạch đặng cho nàng mến?
- Tôi thương cái mũi ông A Nan.
- Mũi của ông ấy có những chất nhớp bên trong và thường chảy ra thứ nước không sạch, nàng chẳng nên ưa thích.
- Tôi thương cái miệng ông A Nan.
- Miệng  của  A  Nan  có những nước miếng, đờm, dãi, nếu ông ấy không năng súc rửa, nơi đó sẽ đóng cáu bợn và tiết ra mùi hôi. Thế thì không đáng cho nàng yêu chuộng.

Sau khi đánh tan những chỗ ái chấp của Ma Ðăng Dà, Ðức Phật lại vì nàng giải thích, chỉ rõ thân người không sạch, mong manh chóng suy tàn, là nguyên nhân của sự đau buồn trong hiện tại và vô lượng nỗi khổ về sau.

Nghe lời chánh chơn hợp lý của Ðức Phật, như người trong bóng tối chợt bắt gặp ánh sáng, Ma Ðăng Dà đứng lặng suy nghĩ. Trước kia nàng lầm tưởng ái tình là vườn hoa tươi đẹp, đầy màu sắc rực rỡ, hương vị thơm tho, nơi ấy hẳn hứa hẹn cho thế gian một diễm phúc tuyệt trần. Nhưng hôm nay nhìn sâu vào thực tế, nàng mới biết nó là một mũi gai độc ẩn núp dưới lớp lá xanh; một sợi dây vô hình lôi kéo người vào ngục tối đau khổ. 

Tỉnh Giấc Mơ Hoa, nàng quan sát những lý: bất tịnh, khổ không, vô thường, vô ngã của Ðức Phật vừa khai thị, liền chứng được quả A Na Hàm. Vừa mừng rỡ vừa tủi thẹn, nàng cúi xuống đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin trọn đời làm đệ tử và phát nguyện sẽ dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi vòng hoa mộng, vào bản thể an vui trong sạch…

Xem thêm:
Đọc thêm..
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh. Đạt đến sự thanh tịnh, trong mát, không phiền não nhiễm ô, bình an và hạnh phúc, đó phải chăng là ước mơ và hành động, dầu vô ý thức, của tất cả một đời người?

Kinh Đại Bát Nhã nhiều lần nói sắc, tức là sự vật, vốn là thanh tịnh: “Sắc thanh tịnh tức là trí huệ ba la mật thanh tịnh” (phẩm Tín hủy ) “Tất cả pháp thanh tịnh nên thanh tịnh này thanh tịnh” (phẩm Thán tịnh). “Tất cả các pháp bản tánh thanh tịnh. Ở trong các pháp đó, nếu Bồ tát tâm thông đạt chẳng mê mờ, đó chính là Trí huệ Bát nhã ba la mật” (phẩm Thông đạt).


Phật pháp ứng dụng Mùa xuân vĩnh cửu của Trí Huệ từ bi

Sắc hay sự vật thanh tịnh là đang thanh tịnh, chứ không phải đã thanh tịnh hay sẽ thanh tịnh. Vì “Hoặc có Phật hay không có Phật, những pháp tướng này luôn luôn thường trụ không khác, vì pháp tướng, pháp trụ, pháp vị thường trụ chẳng sai chẳng mất vậy” (phẩm Vô tác).

Tâm thanh tịnh thì thấy tất cả đều thanh tịnh, như Kinh Duy Ma Cật nói: “Tùy tâm mình thanh tịnh thì thấy cõi Phật thanh tịnh” ( phẩm Nước Phật). 

Thật ra bản tánh của tâm thức chính là trí huệ Bát nhã, thường chiếu sáng tất cả pháp khiến tất cả pháp hiển lộ thật tướng thanh tịnh của chúng:

“Trí huệ ba la mật hay chiếu sáng tất cả pháp, vì rốt ráo thanh tịnh vậy” (phẩm Chiếu minh).

Bản tánh của tâm thức vốn là trí huệ Bát nhã, vốn là thanh tịnh, vô lậu, không từng có nhiễm ô:

“Tâm phàm phu cũng là vô lậu, chẳng bị dính lấm, trói buộc, vì là tánh Không vậy. Tâm Thanh Văn, tâm Độc giác Phật, tâm chư Phật cũng là vô lậu, chẳng bị dính lấm, trói buộc, vì là tánh Không vậy. Sắc cũng là vô lậu, chẳng bị dính lấm, trói buộc, vì là tánh Không vậy” (phẩm Đoạn các kiến).

Tâm và cảnh đều vô lậu, chẳng bị dính lấm trói buộc, nên vốn là thanh tịnh. Tin và sống được điều này thì đây là đời sống chân thật, tự do và an vui.

Sắc hay sự vật vốn là thanh tịnh, do đó được gọi là Như:
“Sắc là tướng Như, Bát nhã ba la mật là tướng Như: Như duy nhất, không hai, không khác. Nhẫn đến nhất thiết chủng trí là tướng Như, Bát nhã ba la mật là tướng Như: Như duy nhất, không hai không khác” (phẩm Xu hướng Nhất thiết trí).

“Vì các pháp rốt ráo thanh tịnh, các pháp là tướng Như” (phẩm Đại Như).

Trong mùa xuân của trí huệ Bát nhã, tất cả đều thanh tịnh, đều Như.
Cuộc chiến chống lại phiền não sanh tử, cuộc chiến để thoát khỏi khổ đau đã  dứt  bặt.  Tất  cả đều  một  màu  bình tịnh  của  một  mùa xuân  không  có  bắt đầu nên cũng không chấm dứt.

Sắc  hay  sự  vật  cũng chính là tự do giải thoát, vì vô biên, vô lượng: “Vì sắc là Không, vì thọ tưởng hành thức là Không nên vô số, vô lượng, vô biên. Các pháp là Không nên vô tận, vô số, vô lượng, vô biên” (phẩm Thâm áo).

Một sắc là vô tận, vô lượng, vô biên nên mở ra thu nhiếp toàn bộ vũ trụ. Trong mùa xuân Bát nhã này, một đóa hoa bao gồm toàn bộ vũ trụ, và toàn bộ vũ trụ phản chiếu trong một đóa hoa.

Trong cái thấy của trí huệ tánh Không, không những thế giới sự vật vô tình là thanh tịnh, mà thế giới chúng sanh hữu tình cũng thanh tịnh, vì tất cả phiền não đều vô tự tánh:

“Vì bổn lai chúng sanh thường thanh tịnh vậy. Này Kiều Thi Ca! Do nhân duyên này, vì chúng sanh vô biên nên biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên” (phẩm Tán hoa).

Trong trí huệ Bát nhã, không những không gian thanh tịnh mà thời gian cũng thanh tịnh:

“Này Tu Bồ Đề! Vì quá khứ thanh tịnh nên vị lai và hiện tại thanh tịnh. Vì vị lai thanh tịnh nên quá khứ và hiện tại thanh tịnh. Vì hiện tại thanh tịnh nên quá khứ và vị lai thanh tịnh. Tại sao thế? Vì hiện tại thanh tịnh cùng với quá khứ và vị lai thanh tịnh không hai không khác, không dứt không hoại vậy” (phẩm Tín hủy).

Tất cả các pháp đều thanh tịnh, thanh tịnh cho đến rốt ráo chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm:

“Đức Phật nói: Này Tu Bồ Đề! Vì sắc thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Vì thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Này Tu Bồ Đề! Nếu sắc chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch thì gọi là sắc thanh tịnh” (phẩm Vô tác).

Trong mùa xuân trí huệ Bát nhã, mọi vật đều sáng sạch, mở rộng đến vô biên, nghĩa là tự do vô biên, nhưng trong ấy không phải rỗng không một cách vô cơ, vô tình mà có tình thương nhuần thấm, bao bọc khắp, liên kết mọi sự với nhau. Một mùa xuân ấm áp, chan hòa nắng ấm. Trí huệ luôn luôn đi liền với từ bi, trí huệ chính là từ bi.

“Do nhân duyên này nên nói rằng Đại thừa đồng đẳng với hư không cũng dung thọ vô lượng vô biên vô số chúng sanh” (phẩm Đẳng Không). Sự  dung  thọ  tất  cả  chúng sanh  của tánh Không chính là từ bi, và cả hỷ xả, tức là Bốn tâm vô lượng. Thế nên thực hành Đại thừa là thực hành trí huệ tánh Không cùng với từ bi:

“Ngài Tu Bồ Đề nói: Này ngài Xá Lợi Phất! Tôi muốn khiến Đại Bồ tát thực hành Bồ tát đạo chẳng rời niệm này: chính là niệm đại bi.

Bấy giờ Đức Phật khen: Lành thay, lành thay! Đây chính là trí huệ Bát nhã của Đại Bồ tát. Ai muốn nói thì phải nói như vậy. Tu Bồ Đề nói về Bát nhã ba la mật đều là tuân theo ý của Phật. Đại Bồ tát học Bát nhã ba la mật phải học như lời Tu Bồ Đề nói” (phẩm Vô sanh).

Trí huệ và từ bi là hai yếu tố căn bản của nền tảng Đại thừa. Chúng ta luôn luôn sống trong mùa xuân vĩnh cửu của trí huệ và từ bi ấy, dù có ý thức hay không, nhiều hay ít. Kho tàng thanh tịnh, tự do và ấm áp này là có sẳn, và chúng ta luôn luôn sống trong kho tàng ấy:

“Bát nhã ba la mật là kho thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật là kho thanh tịnh” (phẩm Kinh nhỉ văn trì).

Phật Di Lặc Từ Thị là người sống trọn vẹn trong kho thanh tịnh ấy, nên ngài luôn luôn cười, nụ cười hỷ xả, tượng trưng cho mùa xuân bất tuyệt.

Trước khi nói Kinh Đại Bát nhã, trong phẩm đầu tiên, chúng ta thấy Đức Thích Ca cũng hiển lộ mùa xuân trí huệ và từ bi ấy:

“Tất  cả  lỗ  chân  lông  khắp  thân  của Phật cũng đều mỉm cười, phóng ánh sáng chiếu khắp cõi Đại thiên suốt đến hằng sa thế giới ở mười phương” (phẩm Tự).

Kinh dạy chúng ta phải biết “hộ trì, an trụ trong Bát nhã ba la mật” (phẩm Kiên cố). Dầu chỉ một ngày, dầu chỉ một niệm, “có thể làm, có thể học đúng như lời, quan sát đúng như trong Bát nhã ba la mật, siêng năng tinh tấn đầy đủ thì lúc phát khởi một niệm sẽ được vô lượng vô biên vô số phước đức” (phẩm Thâm áo).

Nói theo đời thường, chỉ một niệm, chỉ một ngày sống trong kho tàng mùa xuân Bát nhã cũng đủ mãn nguyện cho cả một đời người.

Xem thêm:

Mùa xuân vĩnh cửu của Trí Huệ từ bi

Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh. Đạt đến sự thanh tịnh, trong mát, không phiền não nhiễm ô, bình an và hạnh phúc, đó phải chăng là ước mơ và hành động, dầu vô ý thức, của tất cả một đời người?

Kinh Đại Bát Nhã nhiều lần nói sắc, tức là sự vật, vốn là thanh tịnh: “Sắc thanh tịnh tức là trí huệ ba la mật thanh tịnh” (phẩm Tín hủy ) “Tất cả pháp thanh tịnh nên thanh tịnh này thanh tịnh” (phẩm Thán tịnh). “Tất cả các pháp bản tánh thanh tịnh. Ở trong các pháp đó, nếu Bồ tát tâm thông đạt chẳng mê mờ, đó chính là Trí huệ Bát nhã ba la mật” (phẩm Thông đạt).


Phật pháp ứng dụng Mùa xuân vĩnh cửu của Trí Huệ từ bi

Sắc hay sự vật thanh tịnh là đang thanh tịnh, chứ không phải đã thanh tịnh hay sẽ thanh tịnh. Vì “Hoặc có Phật hay không có Phật, những pháp tướng này luôn luôn thường trụ không khác, vì pháp tướng, pháp trụ, pháp vị thường trụ chẳng sai chẳng mất vậy” (phẩm Vô tác).

Tâm thanh tịnh thì thấy tất cả đều thanh tịnh, như Kinh Duy Ma Cật nói: “Tùy tâm mình thanh tịnh thì thấy cõi Phật thanh tịnh” ( phẩm Nước Phật). 

Thật ra bản tánh của tâm thức chính là trí huệ Bát nhã, thường chiếu sáng tất cả pháp khiến tất cả pháp hiển lộ thật tướng thanh tịnh của chúng:

“Trí huệ ba la mật hay chiếu sáng tất cả pháp, vì rốt ráo thanh tịnh vậy” (phẩm Chiếu minh).

Bản tánh của tâm thức vốn là trí huệ Bát nhã, vốn là thanh tịnh, vô lậu, không từng có nhiễm ô:

“Tâm phàm phu cũng là vô lậu, chẳng bị dính lấm, trói buộc, vì là tánh Không vậy. Tâm Thanh Văn, tâm Độc giác Phật, tâm chư Phật cũng là vô lậu, chẳng bị dính lấm, trói buộc, vì là tánh Không vậy. Sắc cũng là vô lậu, chẳng bị dính lấm, trói buộc, vì là tánh Không vậy” (phẩm Đoạn các kiến).

Tâm và cảnh đều vô lậu, chẳng bị dính lấm trói buộc, nên vốn là thanh tịnh. Tin và sống được điều này thì đây là đời sống chân thật, tự do và an vui.

Sắc hay sự vật vốn là thanh tịnh, do đó được gọi là Như:
“Sắc là tướng Như, Bát nhã ba la mật là tướng Như: Như duy nhất, không hai, không khác. Nhẫn đến nhất thiết chủng trí là tướng Như, Bát nhã ba la mật là tướng Như: Như duy nhất, không hai không khác” (phẩm Xu hướng Nhất thiết trí).

“Vì các pháp rốt ráo thanh tịnh, các pháp là tướng Như” (phẩm Đại Như).

Trong mùa xuân của trí huệ Bát nhã, tất cả đều thanh tịnh, đều Như.
Cuộc chiến chống lại phiền não sanh tử, cuộc chiến để thoát khỏi khổ đau đã  dứt  bặt.  Tất  cả đều  một  màu  bình tịnh  của  một  mùa xuân  không  có  bắt đầu nên cũng không chấm dứt.

Sắc  hay  sự  vật  cũng chính là tự do giải thoát, vì vô biên, vô lượng: “Vì sắc là Không, vì thọ tưởng hành thức là Không nên vô số, vô lượng, vô biên. Các pháp là Không nên vô tận, vô số, vô lượng, vô biên” (phẩm Thâm áo).

Một sắc là vô tận, vô lượng, vô biên nên mở ra thu nhiếp toàn bộ vũ trụ. Trong mùa xuân Bát nhã này, một đóa hoa bao gồm toàn bộ vũ trụ, và toàn bộ vũ trụ phản chiếu trong một đóa hoa.

Trong cái thấy của trí huệ tánh Không, không những thế giới sự vật vô tình là thanh tịnh, mà thế giới chúng sanh hữu tình cũng thanh tịnh, vì tất cả phiền não đều vô tự tánh:

“Vì bổn lai chúng sanh thường thanh tịnh vậy. Này Kiều Thi Ca! Do nhân duyên này, vì chúng sanh vô biên nên biết Bát nhã ba la mật cũng vô biên” (phẩm Tán hoa).

Trong trí huệ Bát nhã, không những không gian thanh tịnh mà thời gian cũng thanh tịnh:

“Này Tu Bồ Đề! Vì quá khứ thanh tịnh nên vị lai và hiện tại thanh tịnh. Vì vị lai thanh tịnh nên quá khứ và hiện tại thanh tịnh. Vì hiện tại thanh tịnh nên quá khứ và vị lai thanh tịnh. Tại sao thế? Vì hiện tại thanh tịnh cùng với quá khứ và vị lai thanh tịnh không hai không khác, không dứt không hoại vậy” (phẩm Tín hủy).

Tất cả các pháp đều thanh tịnh, thanh tịnh cho đến rốt ráo chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm:

“Đức Phật nói: Này Tu Bồ Đề! Vì sắc thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Vì thọ tưởng hành thức thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật thanh tịnh. Này Tu Bồ Đề! Nếu sắc chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch thì gọi là sắc thanh tịnh” (phẩm Vô tác).

Trong mùa xuân trí huệ Bát nhã, mọi vật đều sáng sạch, mở rộng đến vô biên, nghĩa là tự do vô biên, nhưng trong ấy không phải rỗng không một cách vô cơ, vô tình mà có tình thương nhuần thấm, bao bọc khắp, liên kết mọi sự với nhau. Một mùa xuân ấm áp, chan hòa nắng ấm. Trí huệ luôn luôn đi liền với từ bi, trí huệ chính là từ bi.

“Do nhân duyên này nên nói rằng Đại thừa đồng đẳng với hư không cũng dung thọ vô lượng vô biên vô số chúng sanh” (phẩm Đẳng Không). Sự  dung  thọ  tất  cả  chúng sanh  của tánh Không chính là từ bi, và cả hỷ xả, tức là Bốn tâm vô lượng. Thế nên thực hành Đại thừa là thực hành trí huệ tánh Không cùng với từ bi:

“Ngài Tu Bồ Đề nói: Này ngài Xá Lợi Phất! Tôi muốn khiến Đại Bồ tát thực hành Bồ tát đạo chẳng rời niệm này: chính là niệm đại bi.

Bấy giờ Đức Phật khen: Lành thay, lành thay! Đây chính là trí huệ Bát nhã của Đại Bồ tát. Ai muốn nói thì phải nói như vậy. Tu Bồ Đề nói về Bát nhã ba la mật đều là tuân theo ý của Phật. Đại Bồ tát học Bát nhã ba la mật phải học như lời Tu Bồ Đề nói” (phẩm Vô sanh).

Trí huệ và từ bi là hai yếu tố căn bản của nền tảng Đại thừa. Chúng ta luôn luôn sống trong mùa xuân vĩnh cửu của trí huệ và từ bi ấy, dù có ý thức hay không, nhiều hay ít. Kho tàng thanh tịnh, tự do và ấm áp này là có sẳn, và chúng ta luôn luôn sống trong kho tàng ấy:

“Bát nhã ba la mật là kho thanh tịnh. Vì sắc thanh tịnh nên Bát nhã ba la mật là kho thanh tịnh” (phẩm Kinh nhỉ văn trì).

Phật Di Lặc Từ Thị là người sống trọn vẹn trong kho thanh tịnh ấy, nên ngài luôn luôn cười, nụ cười hỷ xả, tượng trưng cho mùa xuân bất tuyệt.

Trước khi nói Kinh Đại Bát nhã, trong phẩm đầu tiên, chúng ta thấy Đức Thích Ca cũng hiển lộ mùa xuân trí huệ và từ bi ấy:

“Tất  cả  lỗ  chân  lông  khắp  thân  của Phật cũng đều mỉm cười, phóng ánh sáng chiếu khắp cõi Đại thiên suốt đến hằng sa thế giới ở mười phương” (phẩm Tự).

Kinh dạy chúng ta phải biết “hộ trì, an trụ trong Bát nhã ba la mật” (phẩm Kiên cố). Dầu chỉ một ngày, dầu chỉ một niệm, “có thể làm, có thể học đúng như lời, quan sát đúng như trong Bát nhã ba la mật, siêng năng tinh tấn đầy đủ thì lúc phát khởi một niệm sẽ được vô lượng vô biên vô số phước đức” (phẩm Thâm áo).

Nói theo đời thường, chỉ một niệm, chỉ một ngày sống trong kho tàng mùa xuân Bát nhã cũng đủ mãn nguyện cho cả một đời người.

Xem thêm:
Đọc thêm..
So sánh với bạn bè cùng lứa, tôi đã có may mắn được sống trọn vẹn thời thơ ấu tại Dalat. Vùng đất cao nguyên ấy, một thời đã được tôn xưng là chốn Hoàng triều Cương thổ, của cuối triều đại nhà Nguyễn, nơi mà người dân dã, từ các bà quảy gánh hàng rong, đến buôn thúng bán bưng ngoài chợ, lúc nào cũng tươm tất trong chiếc áo dài, cho dù chiếc áo dài kia có cũ nát, bạc gấu sờn vai, không che dấu hết được vẻ nghèo khó với những mụn vá thời gian. 

Đất Hoàng triều thuở đó còn hoang sơ lắm, thỉnh thoảng vẫn thường có từng đoàn người Thượng, từ miền rừng núi về qua phố chợ, họ hãy còn đóng khố, đeo gùi và mang rựa trên vai, nối đuôi nhau đi thành một hàng dài, tựa hồ như đã quen với lối đi độc đạo đường rừng. Dalat xứ của sương mù thơ mộng, với đồi thông vi vút. Có người còn thi vị hóa và gọi thị xã cao nguyên này là xứ Anh Đào, vì hàng năm cứ vào đầu Xuân trong không khí lạnh mát, thành phố này lại bừng lên một màu tím hồng của những cội mai anh đào khoe sắc thắm.

Dạo ấy tôi còn bé lắm, ký ức còn sót lại của một cậu bé học trò tiểu học, chỉ là những quang cảnh đùa nghịch với chúng bạn nơi sân trường, hoặc những buổi sáng đứng nghiêm chỉnh chào quốc kỳ trong sương sớm. Ấy vậy mà mỗi khi có ai nhắc đến Dalat, tôi lại hồi tưởng ngay đến một thành phố nhiều núi đồi, với bao nhiêu con dốc cao ngất và không thể thiếu những hàng mai anh đào trên con dốc dẫn xuống bờ hồ, dọc ngang dưới phố. 

Tôi vẫn không thể nào quên được ngôi trường tiểu học, mái ngói năm gian, hàng ngày vang lên từng hồi trống trường hai buổi. Chạy dọc theo đấy là con đường Hai Bà Trưng, nơi ven lộ có trồng khá nhiều những hàng cây mai anh đào. Mỗi năm cứ vào mùa hoa nở, lại bừng lên một màu tím hồng, rực cả một bên đường. Sau mỗi kỳ hoa nở lại đến mùa mai anh đào kết trái, những trái mai nhỏ chỉ bằng nửa đốt ngón tay, chi chít trên cành. 

Thuở ấy những cô học trò bé nhỏ trường tôi, thường hay nhặt những trái mai chín rụng bên lề đường, tô lên mười đầu móng tay làm dáng. Những trái mai anh đào Dalat khi chín, sắc tím đỏ thẫm, mọng nước cắn vào sẽ thấy một vị hơi đắng, thường khi rụng nhiều, bước chân qua đó dẫm lên, còn làm loang tím cả vỉa hè.

Mùa thu năm ấy, khi tôi chuyển trường về Saigon là thời gian đầu tiên của thời trung học. Sân trường nơi đây nóng bức, thiếu hẳn những bóng cây và dạo đó trong sân trường không mấy ngày là thiếu vắng mùi lựu đạn cay bay vào lớp học. Đó là mùa của những thay đổi chính biến, mùa của lớp lớp sinh viên, học sinh thi nhau xuống đường bãi khóa…  Sống  trong  vận  hội mới, và có lẽ nếp sống nơi đô  hội  cũng  dần  dần làm tôi bắt đầu quên đi màu hoa xứ Anh Đào từ dạo đó.


Phật pháp ứng dụng Những cành đào trong ký ức

Cho đến mãi ít năm sau, vào một hôm mùng một Tết, tôi đến chúc Tết một gia đình người bạn, thì chao ôi đó lần đầu tiên tôi được  mục  kích  ngay giữa  phòng  khách  bày biện thật trang trọng một cành bích đào thật tươi thắm, đặt trong một chiếc bình sứ cổ, an vị giữa phòng. Bạn tôi cho biết: “Đây là bích đào Nhật Tân, do người quen trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến mới từ ngoài Hà Nội mang vào tặng.” 

Dạo ấy tôi chưa biết thưởng thức thế nào là vẻ đẹp của cành đào. Tôi nào đâu đã biết phân biệt thế nào là đào kép, đào ta, đào phai ăn quả, đào ghép! Nào đâu đã biết cái đẹp của bích đào là phải từ thân gốc xù xì, chồi ra những cành nhánh gầy guộc, hay những cành đào thế, có dáng hiên ngang như thế người quân tử hoặc những cành đào già, da mốc như rêu cau. 

Nghe nói cành đào gọi là đẹp, trước hết phải còn tùy ở cái dáng, cái thế của nó. Phần gốc xù xì cho ta cảm giác về sự vững bền của nền tảng, cái cốt cách sương kính của người quân tử, chẳng thế mà người xưa đã nói: mai cốt cách, tuyết tinh thần. Những cành, nhánh không nên xum xê quá nhiều, để tạo ra cảm xúc thanh thoát, khoáng đạt. Lúc ấy tôi chỉ thấy cành bích đào kia sao mà rực rỡ thế, một món quà quá hiếm lạ, đến từ nửa bên kia phần đất nước, đang tưng bừng khoe sắc trong những hôm Tết nóng bức của miền Nam.

Phải đợi cho mãi đến khi sang Nhật du học, mùa xuân đầu tiên năm đó, tôi mới thật sự được chiêm ngưỡng và biết thế nào là hoa Anh Đào xứ Phù Tang. Hoa Anh Đào Nhật Bản đẹp thật! Chúng tôi là những kẻ du sinh, lần đầu tiên lạc giữa rừng hoa. Anh Đào nở rộ khắp mọi nơi, từ những chốn đền đài cung điện, cho đến những công viên rộng bao la, những cánh rừng Anh Đào bạt ngàn toàn sắc một màu trắng chỉ hơi phơn phớt một chút sắc hồng, trông xa như những đám mây trắng nõn ửng hồng, bồng bềnh nhẹ trôi theo từng làn gió xuân lướt trên những thảm cỏ xanh. “Sakura, sakura...” 

Cô giáo Nhật Ngữ đã dạy và tập cho chúng tôi cùng hát bài dân ca này. Thử hỏi những ai đã từng một thời là sinh viên du học Nhật Bản mà không nhớ mãi bài hát ấy. Âm điệu bài hát êm ả như sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, một xứ sở thật thái bình, đệm vào đấy tiếng đàn Samisen trầm bổng như quyện vào những động tác uyển chuyển của vũ điệu đón mừng Anh Đào nở mỗi độ đầu tháng Tư. Phải đi thưởng lãm hoa Anh Đào nở trong những dịp lễ hội Hanami như thế, mới thấy được dân tộc Nhật Bản yêu thích và sùng kính biểu tượng Sakura của xứ sở họ như thế nào. 

Và đấy cũng dịp thiên hạ được ngắm nhìn những thiếu nữ Nhật Bản xúng xính trong những bộ Kimono cổ truyền lộng lẫy. Mầu sắc rực rỡ từ những chiếc áo Kimono sặc sỡ, nổi bật bên cạnh từng cánh rừng Anh Đào bát ngát, phơn phớt hồng như một giải lụa bềnh bồng, nhẹ trôi trên bầu trời xanh biếc. Bức tranh thiên nhiên sinh động ấy với những nét chấm phá thật hài hòa tuyệt mỹ, thỉnh thoảng đây đó vài cơn gió nhẹ đưa về, làm hàng vạn cánh hoa Anh Đào lăn tăn nhẹ nhàng bay trong gió, như những hạt tuyết mong manh tựa tơ trời, đậu hờ trên vai áo giai nhân...

“Tam thập niên tiền, nhị thập tam.” Thuở ấy chúng tôi và những buổi bình minh của tuổi trẻ đã cùng nhau hăng say, ngạo nghễ lên đường. Bao nhiêu điều hay, nét đẹp nơi xứ người, đã tràn đến làm chúng tôi choáng ngộp và lưu lại trong tâm hồn tôi, kẻ du sinh, bao ấn tượng. Nhưng trong ký ức tôi, không phải mùa Anh Đào nào nơi xứ Phù Tang lúc nào cũng đơn thuần tươi sáng như mùa Xuân tràn đầy hạnh phúc, không phải lúc nào cũng êm ả bên cạnh những thảm cỏ non còn in nhẹ dấu hài. 

Có một dạo tôi cũng đã trải qua những ngày nghỉ đông cơ cực, buốt giá nơi những công viên cần được trùng tu, khi ấy từng thảm cỏ đã thôi xanh, chung quanh chỉ còn lại toàn một màu vàng rạ héo úa. Tôi đã làm bạn với bao gốc cội Anh Đào. Hai bàn tay thư sinh của chàng du sinh xứ Việt lần hồi cũng biết chăm sóc những cây anh đào, cũng biết khéo léo quấn từng lớp rơm bao phủ quanh thân cây, từng cành đào, dùng sợi dây thừng cuốn chặt lại, rồi âm thầm nhắn nhủ: “Cuốn rơm cho khéo nhé, Giữ ấm buổi đông thì, Xuân về hoa hé nhụy…!”

Qua một mùa đông ấy, hai bàn tay chàng du sinh đã thấy hằn lên những vết sâu nứt nẻ như thân cây đào sương gió. Một buổi chiều cuối đông lang thang một mình trên phố, tình cờ gặp lại người yêu cũ, mời nhau tách cà phê trong kitsaten quán nhỏ. Ôn chuyện đời sương gió, chàng ngọt ngào thả nhẹ từng viên đường vào tách cà phê của nàng như thói quen chưa bỏ. Chợt nhìn xuống bàn tay chàng, nàng sững sờ: “Không lẽ!” Bỡ ngỡ chớp vội làn mi, nàng khẽ ngoảnh mặt cúi đầu. Nghẹn lời hồi lâu không nói: “Cố hương ơi…”, chợt thấy lòng quặn đau một nỗi ngậm ngùi.

Dạo ấy đã xa lắm rồi, mỗi năm trên xứ Phù Tang hoa Anh Đào vẫn nở. Không biết có bao giờ, ai đó lạc bước du xuân đến chốn công viên ngày nọ, nhìn lên những cành hoa Anh Đào đang rung rinh trong gió, vào mỗi dịp lễ hội Hana-mi, hay đang thưởng lãm những cánh anh đào, đua nở giữa không gian trong xanh gió mát, hoặc ngồi nghỉ chân bên những luống cỏ hoa thơm biếc. 

Thử hỏi có ai thấy ẩn hiện đâu đó chút vết tích của chàng du sinh xứ Việt, mùa đông năm nào đã cắm cúi, nâng niu giữ ấm từng gốc cội, cành đào? Hẳn chàng du sinh ấy cho dù có lưu lạc tận phương nào, chắc suốt đời sẽ không bao giờ quên được những tháng năm đầu đời hạnh phúc, sẽ nhớ mãi những ngày đông giá buốt, lam lũ làm bạn với những cội Anh Đào già. Chàng giờ đây đang lần hồi gợi lại trong ký ức từng cánh hoa anh đào, từng bó rơm thơm màu vàng rạ, từng lời hát cũ trong bài: “Sakura, sakura...”

Xem thêm:

Những cành đào trong ký ức

So sánh với bạn bè cùng lứa, tôi đã có may mắn được sống trọn vẹn thời thơ ấu tại Dalat. Vùng đất cao nguyên ấy, một thời đã được tôn xưng là chốn Hoàng triều Cương thổ, của cuối triều đại nhà Nguyễn, nơi mà người dân dã, từ các bà quảy gánh hàng rong, đến buôn thúng bán bưng ngoài chợ, lúc nào cũng tươm tất trong chiếc áo dài, cho dù chiếc áo dài kia có cũ nát, bạc gấu sờn vai, không che dấu hết được vẻ nghèo khó với những mụn vá thời gian. 

Đất Hoàng triều thuở đó còn hoang sơ lắm, thỉnh thoảng vẫn thường có từng đoàn người Thượng, từ miền rừng núi về qua phố chợ, họ hãy còn đóng khố, đeo gùi và mang rựa trên vai, nối đuôi nhau đi thành một hàng dài, tựa hồ như đã quen với lối đi độc đạo đường rừng. Dalat xứ của sương mù thơ mộng, với đồi thông vi vút. Có người còn thi vị hóa và gọi thị xã cao nguyên này là xứ Anh Đào, vì hàng năm cứ vào đầu Xuân trong không khí lạnh mát, thành phố này lại bừng lên một màu tím hồng của những cội mai anh đào khoe sắc thắm.

Dạo ấy tôi còn bé lắm, ký ức còn sót lại của một cậu bé học trò tiểu học, chỉ là những quang cảnh đùa nghịch với chúng bạn nơi sân trường, hoặc những buổi sáng đứng nghiêm chỉnh chào quốc kỳ trong sương sớm. Ấy vậy mà mỗi khi có ai nhắc đến Dalat, tôi lại hồi tưởng ngay đến một thành phố nhiều núi đồi, với bao nhiêu con dốc cao ngất và không thể thiếu những hàng mai anh đào trên con dốc dẫn xuống bờ hồ, dọc ngang dưới phố. 

Tôi vẫn không thể nào quên được ngôi trường tiểu học, mái ngói năm gian, hàng ngày vang lên từng hồi trống trường hai buổi. Chạy dọc theo đấy là con đường Hai Bà Trưng, nơi ven lộ có trồng khá nhiều những hàng cây mai anh đào. Mỗi năm cứ vào mùa hoa nở, lại bừng lên một màu tím hồng, rực cả một bên đường. Sau mỗi kỳ hoa nở lại đến mùa mai anh đào kết trái, những trái mai nhỏ chỉ bằng nửa đốt ngón tay, chi chít trên cành. 

Thuở ấy những cô học trò bé nhỏ trường tôi, thường hay nhặt những trái mai chín rụng bên lề đường, tô lên mười đầu móng tay làm dáng. Những trái mai anh đào Dalat khi chín, sắc tím đỏ thẫm, mọng nước cắn vào sẽ thấy một vị hơi đắng, thường khi rụng nhiều, bước chân qua đó dẫm lên, còn làm loang tím cả vỉa hè.

Mùa thu năm ấy, khi tôi chuyển trường về Saigon là thời gian đầu tiên của thời trung học. Sân trường nơi đây nóng bức, thiếu hẳn những bóng cây và dạo đó trong sân trường không mấy ngày là thiếu vắng mùi lựu đạn cay bay vào lớp học. Đó là mùa của những thay đổi chính biến, mùa của lớp lớp sinh viên, học sinh thi nhau xuống đường bãi khóa…  Sống  trong  vận  hội mới, và có lẽ nếp sống nơi đô  hội  cũng  dần  dần làm tôi bắt đầu quên đi màu hoa xứ Anh Đào từ dạo đó.


Phật pháp ứng dụng Những cành đào trong ký ức

Cho đến mãi ít năm sau, vào một hôm mùng một Tết, tôi đến chúc Tết một gia đình người bạn, thì chao ôi đó lần đầu tiên tôi được  mục  kích  ngay giữa  phòng  khách  bày biện thật trang trọng một cành bích đào thật tươi thắm, đặt trong một chiếc bình sứ cổ, an vị giữa phòng. Bạn tôi cho biết: “Đây là bích đào Nhật Tân, do người quen trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến mới từ ngoài Hà Nội mang vào tặng.” 

Dạo ấy tôi chưa biết thưởng thức thế nào là vẻ đẹp của cành đào. Tôi nào đâu đã biết phân biệt thế nào là đào kép, đào ta, đào phai ăn quả, đào ghép! Nào đâu đã biết cái đẹp của bích đào là phải từ thân gốc xù xì, chồi ra những cành nhánh gầy guộc, hay những cành đào thế, có dáng hiên ngang như thế người quân tử hoặc những cành đào già, da mốc như rêu cau. 

Nghe nói cành đào gọi là đẹp, trước hết phải còn tùy ở cái dáng, cái thế của nó. Phần gốc xù xì cho ta cảm giác về sự vững bền của nền tảng, cái cốt cách sương kính của người quân tử, chẳng thế mà người xưa đã nói: mai cốt cách, tuyết tinh thần. Những cành, nhánh không nên xum xê quá nhiều, để tạo ra cảm xúc thanh thoát, khoáng đạt. Lúc ấy tôi chỉ thấy cành bích đào kia sao mà rực rỡ thế, một món quà quá hiếm lạ, đến từ nửa bên kia phần đất nước, đang tưng bừng khoe sắc trong những hôm Tết nóng bức của miền Nam.

Phải đợi cho mãi đến khi sang Nhật du học, mùa xuân đầu tiên năm đó, tôi mới thật sự được chiêm ngưỡng và biết thế nào là hoa Anh Đào xứ Phù Tang. Hoa Anh Đào Nhật Bản đẹp thật! Chúng tôi là những kẻ du sinh, lần đầu tiên lạc giữa rừng hoa. Anh Đào nở rộ khắp mọi nơi, từ những chốn đền đài cung điện, cho đến những công viên rộng bao la, những cánh rừng Anh Đào bạt ngàn toàn sắc một màu trắng chỉ hơi phơn phớt một chút sắc hồng, trông xa như những đám mây trắng nõn ửng hồng, bồng bềnh nhẹ trôi theo từng làn gió xuân lướt trên những thảm cỏ xanh. “Sakura, sakura...” 

Cô giáo Nhật Ngữ đã dạy và tập cho chúng tôi cùng hát bài dân ca này. Thử hỏi những ai đã từng một thời là sinh viên du học Nhật Bản mà không nhớ mãi bài hát ấy. Âm điệu bài hát êm ả như sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, một xứ sở thật thái bình, đệm vào đấy tiếng đàn Samisen trầm bổng như quyện vào những động tác uyển chuyển của vũ điệu đón mừng Anh Đào nở mỗi độ đầu tháng Tư. Phải đi thưởng lãm hoa Anh Đào nở trong những dịp lễ hội Hanami như thế, mới thấy được dân tộc Nhật Bản yêu thích và sùng kính biểu tượng Sakura của xứ sở họ như thế nào. 

Và đấy cũng dịp thiên hạ được ngắm nhìn những thiếu nữ Nhật Bản xúng xính trong những bộ Kimono cổ truyền lộng lẫy. Mầu sắc rực rỡ từ những chiếc áo Kimono sặc sỡ, nổi bật bên cạnh từng cánh rừng Anh Đào bát ngát, phơn phớt hồng như một giải lụa bềnh bồng, nhẹ trôi trên bầu trời xanh biếc. Bức tranh thiên nhiên sinh động ấy với những nét chấm phá thật hài hòa tuyệt mỹ, thỉnh thoảng đây đó vài cơn gió nhẹ đưa về, làm hàng vạn cánh hoa Anh Đào lăn tăn nhẹ nhàng bay trong gió, như những hạt tuyết mong manh tựa tơ trời, đậu hờ trên vai áo giai nhân...

“Tam thập niên tiền, nhị thập tam.” Thuở ấy chúng tôi và những buổi bình minh của tuổi trẻ đã cùng nhau hăng say, ngạo nghễ lên đường. Bao nhiêu điều hay, nét đẹp nơi xứ người, đã tràn đến làm chúng tôi choáng ngộp và lưu lại trong tâm hồn tôi, kẻ du sinh, bao ấn tượng. Nhưng trong ký ức tôi, không phải mùa Anh Đào nào nơi xứ Phù Tang lúc nào cũng đơn thuần tươi sáng như mùa Xuân tràn đầy hạnh phúc, không phải lúc nào cũng êm ả bên cạnh những thảm cỏ non còn in nhẹ dấu hài. 

Có một dạo tôi cũng đã trải qua những ngày nghỉ đông cơ cực, buốt giá nơi những công viên cần được trùng tu, khi ấy từng thảm cỏ đã thôi xanh, chung quanh chỉ còn lại toàn một màu vàng rạ héo úa. Tôi đã làm bạn với bao gốc cội Anh Đào. Hai bàn tay thư sinh của chàng du sinh xứ Việt lần hồi cũng biết chăm sóc những cây anh đào, cũng biết khéo léo quấn từng lớp rơm bao phủ quanh thân cây, từng cành đào, dùng sợi dây thừng cuốn chặt lại, rồi âm thầm nhắn nhủ: “Cuốn rơm cho khéo nhé, Giữ ấm buổi đông thì, Xuân về hoa hé nhụy…!”

Qua một mùa đông ấy, hai bàn tay chàng du sinh đã thấy hằn lên những vết sâu nứt nẻ như thân cây đào sương gió. Một buổi chiều cuối đông lang thang một mình trên phố, tình cờ gặp lại người yêu cũ, mời nhau tách cà phê trong kitsaten quán nhỏ. Ôn chuyện đời sương gió, chàng ngọt ngào thả nhẹ từng viên đường vào tách cà phê của nàng như thói quen chưa bỏ. Chợt nhìn xuống bàn tay chàng, nàng sững sờ: “Không lẽ!” Bỡ ngỡ chớp vội làn mi, nàng khẽ ngoảnh mặt cúi đầu. Nghẹn lời hồi lâu không nói: “Cố hương ơi…”, chợt thấy lòng quặn đau một nỗi ngậm ngùi.

Dạo ấy đã xa lắm rồi, mỗi năm trên xứ Phù Tang hoa Anh Đào vẫn nở. Không biết có bao giờ, ai đó lạc bước du xuân đến chốn công viên ngày nọ, nhìn lên những cành hoa Anh Đào đang rung rinh trong gió, vào mỗi dịp lễ hội Hana-mi, hay đang thưởng lãm những cánh anh đào, đua nở giữa không gian trong xanh gió mát, hoặc ngồi nghỉ chân bên những luống cỏ hoa thơm biếc. 

Thử hỏi có ai thấy ẩn hiện đâu đó chút vết tích của chàng du sinh xứ Việt, mùa đông năm nào đã cắm cúi, nâng niu giữ ấm từng gốc cội, cành đào? Hẳn chàng du sinh ấy cho dù có lưu lạc tận phương nào, chắc suốt đời sẽ không bao giờ quên được những tháng năm đầu đời hạnh phúc, sẽ nhớ mãi những ngày đông giá buốt, lam lũ làm bạn với những cội Anh Đào già. Chàng giờ đây đang lần hồi gợi lại trong ký ức từng cánh hoa anh đào, từng bó rơm thơm màu vàng rạ, từng lời hát cũ trong bài: “Sakura, sakura...”

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng Mặt thật cuộc đời

Ngồi trên tột đỉnh Thiền Na
Điểm cao trí tuệ chan hoà am mây 
Nhìn xem thế giới trần ai
Chìm trong bể khổ vơi đầy trầm luân 

Phù sinh nào có mùa xuân
Vành môi héo hắt, mắt rưng lệ sầu 
Bến mê sao bắc nhịp cầu
Xe tơ hoa mộng, gối đầu tử sinh 

Đua chen đi bắt bóng hình
Xỏ xâu hạt nước cho mình điểm trang 
Cuộc đời giăng mắc trái ngang
Ai qua nhiều ít cưu mang não phiền 

Sao không tìm lại bình yên
Phút giây tĩnh lặng cửa Thiền an tâm 
Dù cho sống giữa thăng trầm
Nguồn vui cảm thấy ngàn năm rạt rào.

Xem thêm:

Mặt thật cuộc đời

Phật pháp ứng dụng Mặt thật cuộc đời

Ngồi trên tột đỉnh Thiền Na
Điểm cao trí tuệ chan hoà am mây 
Nhìn xem thế giới trần ai
Chìm trong bể khổ vơi đầy trầm luân 

Phù sinh nào có mùa xuân
Vành môi héo hắt, mắt rưng lệ sầu 
Bến mê sao bắc nhịp cầu
Xe tơ hoa mộng, gối đầu tử sinh 

Đua chen đi bắt bóng hình
Xỏ xâu hạt nước cho mình điểm trang 
Cuộc đời giăng mắc trái ngang
Ai qua nhiều ít cưu mang não phiền 

Sao không tìm lại bình yên
Phút giây tĩnh lặng cửa Thiền an tâm 
Dù cho sống giữa thăng trầm
Nguồn vui cảm thấy ngàn năm rạt rào.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng Du tâm lãng tử

TRÊN MÀY THIỀN SƯ

Đầu mùa tuyết phất phơ bay
Nửa đêm nguyệt tận trên mày thiền sư 
Tâm kinh hóa hiện trang thư
Sa-Bà nửa cuộc chơn như đã từng

ĐÃI ĐẰNG ĐÔI NƠI

Giang hà một cõi rong rêu
Người xa cố quận có điều gì chăng? 
Đêm rằm nguyệt vẫn vĩnh hằng 
Sa-Bà một cõi đãi đằng đội nơi

THƯƠNG NGƯỜI CHUNG CUỘC

Cửa thiền lộng bóng hoàng hôn 
Ngoài kia bất tận sóng cồn nhấp nhô 
Tình tha thiết vọng giang hồ
Thương người chung cuộc nấm mồ tử-sanh

CHẾ CHỦ

Mưa đồ vương bá mà chi
Để cho thiếp những sầu bi lạnh lùng 
Sanh linh bá tánh khốn cùng
Thành hoang tháp đổ anh hùng nơi đâu?

CHƠI THÔI MÀ

Chơi thôi mà! chơi thôi mà!
Văn chương ấm ớ có là bao nhiêu 
Vui chợ sớm, vãng chùa chiều
Dấn thân sanh-tử cũng liều nắng mưa

VÀNG HOA NỞ GIỮA CON ĐƯỜNG

Em xa cố quận mấy mùa 
Trời phương ngoại dựng mái chùa tư hương 
Vàng hoa nở giữa con đường
Khói trầm hương tỏa cúng dường thập phương

MỘT DÒNG TỬ-SANH

Người từ muôn thuở về đây
Tôi từ một cõi tháng ngày ruổi rong 
Nhớ nhau xin tạ ơn lòng
Trong ngoài cố quận một dòng tử-sanh

VỀ CỘI DU CA

Lá vàng về cội du ca
Mùa vàng một cõi giang hà đẹp sao 
Vô tình khách những nao nao
Mơ hồ đồng vọng thuở nào... lại đây!

NGHIỆP CHỮ

Ấy là nghiệp chữ đa mang
Nhì nhằng văn tự ngỡ rằng mình hay 
Càng tài hoa lắm đắng cay
Phỉ phong một ắt đọa đày bằng ba.

Xem thêm:

Du tâm lãng tử

Phật pháp ứng dụng Du tâm lãng tử

TRÊN MÀY THIỀN SƯ

Đầu mùa tuyết phất phơ bay
Nửa đêm nguyệt tận trên mày thiền sư 
Tâm kinh hóa hiện trang thư
Sa-Bà nửa cuộc chơn như đã từng

ĐÃI ĐẰNG ĐÔI NƠI

Giang hà một cõi rong rêu
Người xa cố quận có điều gì chăng? 
Đêm rằm nguyệt vẫn vĩnh hằng 
Sa-Bà một cõi đãi đằng đội nơi

THƯƠNG NGƯỜI CHUNG CUỘC

Cửa thiền lộng bóng hoàng hôn 
Ngoài kia bất tận sóng cồn nhấp nhô 
Tình tha thiết vọng giang hồ
Thương người chung cuộc nấm mồ tử-sanh

CHẾ CHỦ

Mưa đồ vương bá mà chi
Để cho thiếp những sầu bi lạnh lùng 
Sanh linh bá tánh khốn cùng
Thành hoang tháp đổ anh hùng nơi đâu?

CHƠI THÔI MÀ

Chơi thôi mà! chơi thôi mà!
Văn chương ấm ớ có là bao nhiêu 
Vui chợ sớm, vãng chùa chiều
Dấn thân sanh-tử cũng liều nắng mưa

VÀNG HOA NỞ GIỮA CON ĐƯỜNG

Em xa cố quận mấy mùa 
Trời phương ngoại dựng mái chùa tư hương 
Vàng hoa nở giữa con đường
Khói trầm hương tỏa cúng dường thập phương

MỘT DÒNG TỬ-SANH

Người từ muôn thuở về đây
Tôi từ một cõi tháng ngày ruổi rong 
Nhớ nhau xin tạ ơn lòng
Trong ngoài cố quận một dòng tử-sanh

VỀ CỘI DU CA

Lá vàng về cội du ca
Mùa vàng một cõi giang hà đẹp sao 
Vô tình khách những nao nao
Mơ hồ đồng vọng thuở nào... lại đây!

NGHIỆP CHỮ

Ấy là nghiệp chữ đa mang
Nhì nhằng văn tự ngỡ rằng mình hay 
Càng tài hoa lắm đắng cay
Phỉ phong một ắt đọa đày bằng ba.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Hãy hình dung, nơi một lề đường thành phố New York, nơi ồn ào không ngưng với đủ thứ âm thanh. Và ngồi bệt dưới đất, lặng lẽ ở một hè phố, là một vị sư và một số người Mỹ đang thiền tập, bất kể người đi bộ lướt qua trước mặt, bất kể xe chạy vù vù dưới đường, và bất kể xe điện chạy ầm ầm gần đó. Họ là những mảng rất là bình an, vắng lặng giữa một thành phố không ngừng chuyển động.

Chúng ta đang sống trong một thế giới hỗn loạn và ồn ào. Những tiếng động vang lên khắp nơi, không ngừng. Tiếng xe chạy, tiếng máy TV, tiếng nhạc hắt ra từ quán xá, tiếng rao ngoài phố, tiếng gió kêu, tiếng sóng biển, tiếng xe lửa, và vân vân. Gần như, không thể tìm được phút giây nào vắng lặng nơi thành phố.


Phật pháp ứng dụng Một góc vắng lặng

Đặc biệt, là ở những thành phố thức mãi 24 giờ như New York. Do vậy, một nhóm khoa học gia từ đại học NYU, làm việc chung với các khoa học gia ở Ohio State University, bắt đầu nghiên cứu về tình hình ô nhiễm tiếng ồn ở New York, với dự án sẽ kéo dài nhiều năm với tên là Sounds of New York City (SONYC), với tài trợ 4.6 triệu đô từ National Science Founda-tion.

Một cuộc nghiên cứu nhiều năm trước đó về ảnh hưởng tiếng động thành thị đã cho thấy rằng tiếng ồn đang làm nhiều người dân suy giảm thính lực, sức khỏe yếu hơn, khả năng học chậm hơn và dễ có thái độ đối kháng xã hội.
Tiến sĩ Alice H. Suter, chuyên gia về âm thanh học ở viện National Institute for Occupa-tional Safety and Health, ghi nhận rằng tiếng ồn gây ra sự căng thẳng, nhưng “xã hội chúng ta chấp nhận tiếng ồn như cái xấu cần thiết,” và rồi mọi người xem như tiếng ồn là một phần của môi trường không gạt bỏ được.

Suter nói rằng có hơn 20 triệu người Mỹ mỗi ngày tiếp cận với môi trường âm thanh ồn tới mức làm suy giảm thính lực, tức là âm thanh cao hơn 80 decibels, tức là ngang với tiếng ồn của một máy hút bụi, hay máy cơ khí điện, hay khối lượng xe cộ đông đúc.

Tiếng ồn cũng ảnh hưởng tới áp huyết máu, theo một số thử nghiệm với loài khỉ rhesus monkeys và huyết áp vẫn cao kể cả khi tiếng ồn chấm dứt.

Phải chăng, đó là một trong các lý do nhiều Phật tử quyết định đưa thiền tập tới đường phố và tới các trạm xe điện ngầm ở thành phố New York, vừa để hoằng pháp, vừa để tự vệ, vừa giúp nhau giữ sức khỏe cho thân và tâm?

Tạp chí Lion’s Roar hôm 16/11/2016 có bản tin của Sam Littlefair ghi nhận hiện tượng này.

Một tổ chức mới lập và lan rộng nhanh chóng có tên là Buddhist Insights đang tìm cách giúp người dân New York tập thiền ở những nơi bất ngờ nhất – và một phần thiền tập là, làm bạn với những gì chung quanh mình.
Bài  báo  viết  rằng  dân  New  York  có  thể không nghĩ rằng các đường phố thô nhám gạch đá là nơi để tìm bình an nội tâm, nhưng nhóm Buddhist Insights đang nhắm thay đổi các suy nghĩ đó.

Một người đồng sáng lập Buddhist Insights là Giovanna Maselli nói rằng, “Người ta nói rằng bạn phải xa lìa New York để tìm bình an và vắng lặng.” Để thách thức suy nghĩ đó, cô và người đồng sáng lập là nhà sư Bhante Sud-dhaso đã tổ chức các lớp thiền tập ở các địa điểm bất thường trong thành phố. Người ta gọi đó là “nhập thất trên đường phố.”

Maselli nói, “Nhập thất trên phố lúc đầu như là chuyện vui đùa. Nhưng rồi có nhiều phản ứng tích cực. Dân chúng nhận ra rằng họ có thể thiền tập ở bất kỳ nơi nào.”

Buddhist Insight tự định ra nhiệm vụ là nối kết dân New York với các nhà tu Phật giáo. Ma-selli giải thích rằng khi cô muốn tìm một vị thầy hồi năm 2015, cô chẳng gặp ai cả. Do vậy cô hợp tác với Suddhaso, một nhà sư Phái Lâm Truyền của Theravada để lập tổ chức này.

Nhà sư và cô Maselli gần như tình cờ khám phá ra khái niệm mở các lớp thiền tập trên đường phố.

Maselli nói, “Nó khởi đầu chỉ vì tôi thường tới trễ. Bất cứ khi nào chúng tôi gặp nhau, tôi lại thấy nhà sư đang thiền tập để chờ tôi, nên tôi mới chụp hình nhà sư.”

Maselli phóng các hình đó lên mạng Insta-gram, nơi mỗi tấm hình được hàng trăm “ưa thích” (likes). Trong vòng chưa tới một năm, tài khoản hội Buddhist Insights có hơn 20,000 người theo dõi. Khi Buddhist Insights mở lớp đầu tiên trong tháng 1 -2016, quảng bá trên mạng Instagram, có 50 người tham dự và 50 người khác ghi tên trong danh sách chờ.

Thế rồi cô Maselli và nhà sư Suddhaso bắt đầu mở các lớp hàng tuần tại nhiều nơi ở New York City: các nhà thờ, các phòng tranh, các bờ biển, các hè phố, các trạm xe điện ngầm, các công viên và bất cứ nơi nào cho họ ngồi tự do.

Nhà sư Suddhaso giải thích rằng chỉ là vấn đề thiết lập một thái độ để thiền tập bất cứ nơi nào và làm bạn với môi trường chung quanh, “Thường thì, khi chúng ta tập thiền và có tiếng ồn bên ngoài, chúng ta suy nghĩ, ‘Ồ, tôi có thể thiền tập nếu không có tiềng ồn kia.’ Vấn đề không phải là tiếng ồn. Điều quấy rối việc thiền tập của bạn là thái độ đối với tiếng ồn: tiếng ồn chỉ là tiếng ồn. Do vậy, chúng ta thiết lập thái độ tập trung vào giây phút hiện tại và dùng nó như phòng thí nghiệm của bạn để khảo sát tâm mình. Đó là điều bạn có thể làm bất kỳ nơi nào, với bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào.”

Các lớp hàng tuần thường tổ chức ở bờ biển hay hè phố, nhưng một vài chương trình rất sáng tạo. Hồi tháng 6/2016, Buddhist Insights tổ chức quán niệm về sự chết trong một nghĩa trang. Hồi tháng 9/2016, họ thiền tập trong một cơ xưởng làm sô-cô-la. Maselli nói, “Khi chúng ta nói về ly dục, chỉ là khái niệm trừu tượng thôi, nhưng khi bạn vào một nơi bạn có thể ăn kẹo sô-cô-la, nó có một ảnh hưởng khác liền.”

Hồi tháng 10/2016, họ tổ chức nhập thất suốt ngày dài về thiền tâm từ trên xe điện ngầm, khuyến khích người tham dự thực tập từ bi với các hành khách xe điện chung quanh họ.

Không phải mới lạ gì về “nhập thất trên đường phố.” Thiền sư Bernie Glassman (truyền thống Zen) và dòng thiền có tên là Zen Peace-makers từng tổ chức “nhập thất trên phố” trong nhiều thập niên, có nhiều ngày và đêm sống trên đường phố New York. Nhưng nhập thất như Buddhist Insight vẫn khác hơn, vì thời lượng thiền tập ngắn, và bất kỳ ai – dù sơ học hay thâm niên – đều có thể tham dự.

Buddhist Insights cũng được ghi nhận là mô hình không-bộ-phái. Y hệt như MNDFL ở Manhattan và như Dharma Bum Temple ở San Diego, Buddhist Insights để cho các thiền sinh thử tập theo phương pháp nhiều tông phái khác nhau, và giúp họ tìm xem truyền thống Phật giáo nào thích hợp với họ.

Các lớp và các buổi nhập thất của Buddhist insights được hướng dẫn bởi nhà sư Suddhaso hay các nhà sư thỉnh giảng từ các thiền viện khác nhau trong truyền thống Theravada, hay Vajrayana (Phật giáo Tây Tạng), hay Thiền Tông (Zen). Các chương trình đều miễn phí, nhưng cúng dường sẽ được đón nhận. Họ đang trở thành những góc rất an bình và vắng lặng của New York.

Xem thêm:

Một góc vắng lặng

Hãy hình dung, nơi một lề đường thành phố New York, nơi ồn ào không ngưng với đủ thứ âm thanh. Và ngồi bệt dưới đất, lặng lẽ ở một hè phố, là một vị sư và một số người Mỹ đang thiền tập, bất kể người đi bộ lướt qua trước mặt, bất kể xe chạy vù vù dưới đường, và bất kể xe điện chạy ầm ầm gần đó. Họ là những mảng rất là bình an, vắng lặng giữa một thành phố không ngừng chuyển động.

Chúng ta đang sống trong một thế giới hỗn loạn và ồn ào. Những tiếng động vang lên khắp nơi, không ngừng. Tiếng xe chạy, tiếng máy TV, tiếng nhạc hắt ra từ quán xá, tiếng rao ngoài phố, tiếng gió kêu, tiếng sóng biển, tiếng xe lửa, và vân vân. Gần như, không thể tìm được phút giây nào vắng lặng nơi thành phố.


Phật pháp ứng dụng Một góc vắng lặng

Đặc biệt, là ở những thành phố thức mãi 24 giờ như New York. Do vậy, một nhóm khoa học gia từ đại học NYU, làm việc chung với các khoa học gia ở Ohio State University, bắt đầu nghiên cứu về tình hình ô nhiễm tiếng ồn ở New York, với dự án sẽ kéo dài nhiều năm với tên là Sounds of New York City (SONYC), với tài trợ 4.6 triệu đô từ National Science Founda-tion.

Một cuộc nghiên cứu nhiều năm trước đó về ảnh hưởng tiếng động thành thị đã cho thấy rằng tiếng ồn đang làm nhiều người dân suy giảm thính lực, sức khỏe yếu hơn, khả năng học chậm hơn và dễ có thái độ đối kháng xã hội.
Tiến sĩ Alice H. Suter, chuyên gia về âm thanh học ở viện National Institute for Occupa-tional Safety and Health, ghi nhận rằng tiếng ồn gây ra sự căng thẳng, nhưng “xã hội chúng ta chấp nhận tiếng ồn như cái xấu cần thiết,” và rồi mọi người xem như tiếng ồn là một phần của môi trường không gạt bỏ được.

Suter nói rằng có hơn 20 triệu người Mỹ mỗi ngày tiếp cận với môi trường âm thanh ồn tới mức làm suy giảm thính lực, tức là âm thanh cao hơn 80 decibels, tức là ngang với tiếng ồn của một máy hút bụi, hay máy cơ khí điện, hay khối lượng xe cộ đông đúc.

Tiếng ồn cũng ảnh hưởng tới áp huyết máu, theo một số thử nghiệm với loài khỉ rhesus monkeys và huyết áp vẫn cao kể cả khi tiếng ồn chấm dứt.

Phải chăng, đó là một trong các lý do nhiều Phật tử quyết định đưa thiền tập tới đường phố và tới các trạm xe điện ngầm ở thành phố New York, vừa để hoằng pháp, vừa để tự vệ, vừa giúp nhau giữ sức khỏe cho thân và tâm?

Tạp chí Lion’s Roar hôm 16/11/2016 có bản tin của Sam Littlefair ghi nhận hiện tượng này.

Một tổ chức mới lập và lan rộng nhanh chóng có tên là Buddhist Insights đang tìm cách giúp người dân New York tập thiền ở những nơi bất ngờ nhất – và một phần thiền tập là, làm bạn với những gì chung quanh mình.
Bài  báo  viết  rằng  dân  New  York  có  thể không nghĩ rằng các đường phố thô nhám gạch đá là nơi để tìm bình an nội tâm, nhưng nhóm Buddhist Insights đang nhắm thay đổi các suy nghĩ đó.

Một người đồng sáng lập Buddhist Insights là Giovanna Maselli nói rằng, “Người ta nói rằng bạn phải xa lìa New York để tìm bình an và vắng lặng.” Để thách thức suy nghĩ đó, cô và người đồng sáng lập là nhà sư Bhante Sud-dhaso đã tổ chức các lớp thiền tập ở các địa điểm bất thường trong thành phố. Người ta gọi đó là “nhập thất trên đường phố.”

Maselli nói, “Nhập thất trên phố lúc đầu như là chuyện vui đùa. Nhưng rồi có nhiều phản ứng tích cực. Dân chúng nhận ra rằng họ có thể thiền tập ở bất kỳ nơi nào.”

Buddhist Insight tự định ra nhiệm vụ là nối kết dân New York với các nhà tu Phật giáo. Ma-selli giải thích rằng khi cô muốn tìm một vị thầy hồi năm 2015, cô chẳng gặp ai cả. Do vậy cô hợp tác với Suddhaso, một nhà sư Phái Lâm Truyền của Theravada để lập tổ chức này.

Nhà sư và cô Maselli gần như tình cờ khám phá ra khái niệm mở các lớp thiền tập trên đường phố.

Maselli nói, “Nó khởi đầu chỉ vì tôi thường tới trễ. Bất cứ khi nào chúng tôi gặp nhau, tôi lại thấy nhà sư đang thiền tập để chờ tôi, nên tôi mới chụp hình nhà sư.”

Maselli phóng các hình đó lên mạng Insta-gram, nơi mỗi tấm hình được hàng trăm “ưa thích” (likes). Trong vòng chưa tới một năm, tài khoản hội Buddhist Insights có hơn 20,000 người theo dõi. Khi Buddhist Insights mở lớp đầu tiên trong tháng 1 -2016, quảng bá trên mạng Instagram, có 50 người tham dự và 50 người khác ghi tên trong danh sách chờ.

Thế rồi cô Maselli và nhà sư Suddhaso bắt đầu mở các lớp hàng tuần tại nhiều nơi ở New York City: các nhà thờ, các phòng tranh, các bờ biển, các hè phố, các trạm xe điện ngầm, các công viên và bất cứ nơi nào cho họ ngồi tự do.

Nhà sư Suddhaso giải thích rằng chỉ là vấn đề thiết lập một thái độ để thiền tập bất cứ nơi nào và làm bạn với môi trường chung quanh, “Thường thì, khi chúng ta tập thiền và có tiếng ồn bên ngoài, chúng ta suy nghĩ, ‘Ồ, tôi có thể thiền tập nếu không có tiềng ồn kia.’ Vấn đề không phải là tiếng ồn. Điều quấy rối việc thiền tập của bạn là thái độ đối với tiếng ồn: tiếng ồn chỉ là tiếng ồn. Do vậy, chúng ta thiết lập thái độ tập trung vào giây phút hiện tại và dùng nó như phòng thí nghiệm của bạn để khảo sát tâm mình. Đó là điều bạn có thể làm bất kỳ nơi nào, với bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào.”

Các lớp hàng tuần thường tổ chức ở bờ biển hay hè phố, nhưng một vài chương trình rất sáng tạo. Hồi tháng 6/2016, Buddhist Insights tổ chức quán niệm về sự chết trong một nghĩa trang. Hồi tháng 9/2016, họ thiền tập trong một cơ xưởng làm sô-cô-la. Maselli nói, “Khi chúng ta nói về ly dục, chỉ là khái niệm trừu tượng thôi, nhưng khi bạn vào một nơi bạn có thể ăn kẹo sô-cô-la, nó có một ảnh hưởng khác liền.”

Hồi tháng 10/2016, họ tổ chức nhập thất suốt ngày dài về thiền tâm từ trên xe điện ngầm, khuyến khích người tham dự thực tập từ bi với các hành khách xe điện chung quanh họ.

Không phải mới lạ gì về “nhập thất trên đường phố.” Thiền sư Bernie Glassman (truyền thống Zen) và dòng thiền có tên là Zen Peace-makers từng tổ chức “nhập thất trên phố” trong nhiều thập niên, có nhiều ngày và đêm sống trên đường phố New York. Nhưng nhập thất như Buddhist Insight vẫn khác hơn, vì thời lượng thiền tập ngắn, và bất kỳ ai – dù sơ học hay thâm niên – đều có thể tham dự.

Buddhist Insights cũng được ghi nhận là mô hình không-bộ-phái. Y hệt như MNDFL ở Manhattan và như Dharma Bum Temple ở San Diego, Buddhist Insights để cho các thiền sinh thử tập theo phương pháp nhiều tông phái khác nhau, và giúp họ tìm xem truyền thống Phật giáo nào thích hợp với họ.

Các lớp và các buổi nhập thất của Buddhist insights được hướng dẫn bởi nhà sư Suddhaso hay các nhà sư thỉnh giảng từ các thiền viện khác nhau trong truyền thống Theravada, hay Vajrayana (Phật giáo Tây Tạng), hay Thiền Tông (Zen). Các chương trình đều miễn phí, nhưng cúng dường sẽ được đón nhận. Họ đang trở thành những góc rất an bình và vắng lặng của New York.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng Em về nhớ giùm anh

Lối về sao rất lạ
trong mắt em đường xa 
tiếng dế kêu ngày hạ 
lay động mấy dặm hoa

giữa quê nhà xao xuyến 
nhắn giùm anh một lời 
thương ơi trăm con kiến 
ngàn con chim nhớ ơi

bước đi nên rất khẽ 
nhớ nghe hồn phố xưa 
mây bay vô ngằn mé 
theo lời kinh sững sờ

em về qua bến vắng 
nhớ hỏi con đò xưa
có trôi cùng mây trắng 
chở nắng mấy ban trưa

bước qua dòng nước nhỏ 
soi giùm anh bên sông 
ảnh xưa chìm còn đó 
hay trôi mấy vô thường

mây trắng vương trên tóc 
lạnh buốt thuở xuân thì 
người lái đò năm trước 
đã như mộng trôi đi

hương bay xa trăm lối 
nhờ em thắp giùm anh 
gửi qua bên kia núi 
hương tuệ, hương tứ ân

con nghe cửa không cửa 
thầy dạy bài học đầu
niết bản không phương xứ 
bước chân đặt vào đâu

lời thầy dạy con nhớ 
không lối nào để đi 
không pháp nào để giữ 
tức khắc qua bờ kia

chim bay là tâm ảnh 
chim kêu cũng là tâm vô 
thường nghe rất lạnh

Xem thêm:

Em về nhớ giùm anh

Phật pháp ứng dụng Em về nhớ giùm anh

Lối về sao rất lạ
trong mắt em đường xa 
tiếng dế kêu ngày hạ 
lay động mấy dặm hoa

giữa quê nhà xao xuyến 
nhắn giùm anh một lời 
thương ơi trăm con kiến 
ngàn con chim nhớ ơi

bước đi nên rất khẽ 
nhớ nghe hồn phố xưa 
mây bay vô ngằn mé 
theo lời kinh sững sờ

em về qua bến vắng 
nhớ hỏi con đò xưa
có trôi cùng mây trắng 
chở nắng mấy ban trưa

bước qua dòng nước nhỏ 
soi giùm anh bên sông 
ảnh xưa chìm còn đó 
hay trôi mấy vô thường

mây trắng vương trên tóc 
lạnh buốt thuở xuân thì 
người lái đò năm trước 
đã như mộng trôi đi

hương bay xa trăm lối 
nhờ em thắp giùm anh 
gửi qua bên kia núi 
hương tuệ, hương tứ ân

con nghe cửa không cửa 
thầy dạy bài học đầu
niết bản không phương xứ 
bước chân đặt vào đâu

lời thầy dạy con nhớ 
không lối nào để đi 
không pháp nào để giữ 
tức khắc qua bờ kia

chim bay là tâm ảnh 
chim kêu cũng là tâm vô 
thường nghe rất lạnh

Xem thêm:
Đọc thêm..
Gần nửa đời người lăn lóc đó đây trên nhiều khu khác biệt của đất Sài-gòn vậy mà tôi chỉ thấy được hai mặt, hoặc tráng lệ nguy nga đè bẹp con người dưới gông cùm kim tiền vật chất, hoặc bùn lầy nước đọng chết đuối con người bằng những thứ tầm thường nhỏ mọn như miếng ăn chỗ ở. 

Không có bộ mặt nào khác hơn. Sài-gòn đối với tôi, như vậy trên bản chất giống bất cứ một thành phố nào trên thế giới, không thể tìm thấy tánh cách thuần túy Việt Nam. Tôi một thời lơ là với Sài -gòn cũng vì lẽ đó. 

Thế nhưng có ai chơi cắc cớ hỏi tính chất Việt của một thành phố là cái gì, nằm trong địa hạt nào của muôn ngàn dáng vẻ biểu hiện từ văn minh đến văn hóa, chắc thế nào tôi cũng ậm ừ cho qua bởi không thể nào vẽ lên, tả được những nét tận tường. 

Ổ chuột và những căn nhà chông chênh trên mặt sông bùn lầy đen đúa thì hiện diện ở bất cứ thành phố nào của xã hội nghèo nàn, nhất là vùng Ðông Nam Á. Xã hội tân tiến Tây phương ít xóm nghèo, ít hang cùng ngõ hẻm hơn, ít nhưng không phải là không. Nhà lầu cao với những kiến trúc tân kỳ càng ngạo nghễ, đẹp mắt càng không thể tượng trưng cho Việt chất. 

Chộp nắm được phần nào dễ thương, là lạ trong kiến trúc, trong lối ăn nếp ở, trong cách xử thế tiếp vật, trong một nghề nghiệp đặc biệt, tôi, lòng lúc đó đương lạnh tanh, nôn nao sung sướng như hồi nhỏ được về quê thấy lại cái lò gạch cũ, nghe được mùi thơm từ khu vườn mía Tây của người láng giềng, ngó mãn nhãn những miếng ruộng lớn đại nối tiếp nhau chạy tới mút chân trời, hay thấy con sông hiền hòa thỉnh thoảng có vài chiếc ghe lồng trôi chầm chậm...

Ðiều dễ thương đối với tôi cũng bình thường thôi. Thường là những căn nhà ở vùng Bà Chiểu, Thủ Ðức, ba gian hai chái, vách bổ kho, mái ngói âm dương, cột danh mộc tròn lên nước bóng lưỡng dựng chững chạc trên từng tảng đá xanh vuông vức, trong nhà đối liễn vẫn còn treo trên những vị trí trang trọng. 

Hay một cái bàn 'ông thiên' giữa trời thường thấy ở vùng Giồng Ông Tố với hình ảnh người chủ gia đình, lúc vừa chụp tối, bận áo bà ba hai tay chấp nắm nhang xá xá bốn phương trời. Hoặc một cái gáo dừa gắn cán dài úp trên lu nước dựng ngoài mái hiên bắt gặp thường xuyên từ khoảng Cầu Hàn đổ ra đến nửa đường đi Nhà Bè hay từ phía Phú Lâm đổ lên Gò Ðen. 

Có những hình ảnh nhỏ hơn và tầm thường hơn như tiếng võng đưa kẽo-kẹt vào lúc giữa trưa trời đứng gió. Võng phải treo phía trên một cái giường tre khập khễnh mới đúng điệu, hòa hợp vời cảnh trí xa xa là một bụi tre mà ngọn và tất cả lá đều đương đứng im lìm trầm ngâm ngó trời như thường thấy ở xóm Cầu Tre trước đây thì càng tốt.

Nhưng tôi chưa đủ thời giờ để nhìn cho thỏa mắt, chưa đủ lớn để chíp vô ký ức cất làm kỷ niệm riêng cho đời mình thì các cảnh trí trên phần nhiều đã bị sóng thời gian tàn nhẫn phủ lấp chìm hay bóp cho biến dạng theo sự đổi thay tất nhiên của xã hội. Chúng mất hút đi mau chóng, tới khi tôi kịp rãnh rỗi ngó lại thì còn chẳng thấy được bao nhiêu.

À, hình như là Sài- gòn phát triển theo tốc độ phi mã của thời đại tân tiến nên tiêu diệt mất những vết tích nhà quê nghèo nàn nhưng dễ thương của một sinh hoạt tiền đô thị mà trước đây tôi tưởng lầm là nét chấm phá nào đó của Việt tính. Nhưng không sao, tôi biết được bịnh mình. 

Mình thèm, mình thiếu trong máu huyết một mảnh trời quê và đương đòi Sài-gòn cung cấp cho một chút quê mùa đó. Ðô thị vây hãm tầm mắt bằng nhà cao, hãng xưởng và xe bụi, Sài-gòn giới hạn tâm hồn người bằng chuyện thành phố lẩm cẩm tình-tiền-thù không có gì đặc trưng, tôi cảm thấy thiếu một khung trời khoáng đãng, thèm một chút hoàn cảnh thuận tiện để buông thả tâm hồn, tôi thiếu tình người ở trạng thái sơ tâm...


Phật pháp ứng dụng Biển trời lai láng

Trong tâm thái hoài cổ nao nao của nỗi thèm khát đó tôi được nghe chuyện hai vợ chồng chú Hai Một nhưng quan, khóc đám.

Như bao nhiêu lần trước, Chú Hai Một khi vô tới hàng ba, dợm cẳng bước lên ngạch cửa, thì quay về phía sau rầy dức vợ sao chậm lục còn hơn bà già đi âm phủ rồi xăn xáy bước ào vô nhà như con trốt, bỏ mặc kệ thím Hai còn đủng đỉnh đánh-đồng-xa đâu đó mút tí tè ngoài đầu ngõ.

Nhiều người ngưng chuyện trò len lén ngước lên quan sát người khách mới, cách quan sát có chút tò mò đó, nhưng e dè, xa cách. Nhiều người, cử chỉ bỗng nhiên chậm rãi hơn như đương bận dồn hết giác quan để bí mật theo dõi chuyện gì đó xảy ra chung quanh. Có người còn liếc liếc rồi lại giả bộ cúi xuống hớp ly nước dở dang nãy giờ để lơ là trước mặt. 

Không một câu hỏi nào được nói lên thành lời, chỉ có những câu hỏi thầm ngầm chứa trong thái độ và cử chỉ. Chú Hai Một tuy vậy cũng đã biết mình phải nói gì nên lên tiếng trước, chú nói trống không nhưng thật ra là nói với toàn thể những người đương có mặt.

'Ðược rồi, để đó tôi lo liệu cho. Bà con mình không chớ ai vô đây,' chú hỏi tiếp theo sau khi dòm sơ qua một vòng từ những người ngồi ở cái bàn gần cửa tới một số người trai trẻ ngồi bỏ chưn thòng xuống đất trên bộ ngựa rồi tới những người hơi lạ lạ ngồi tuốt trong gần chỗ cái màn cửa ngăn với nhà trong. 'Mà hồi nào vậy? Hôm kia hôm kìa gì đây tôi còn thấy ảnh đi băng-xiên băng-nai, té lên té xuống trước nhà tôi, quần ống cao ống thấp, lè nhè, con nít chạy theo coi rùm trời. Gì mà mau vậy?' 

Ba bốn tiếng giọng thanh niên, mau mắn tranh nhau nói với khách. 'Chị Sáu thấy xác ảnh nằm vắt vẻo nửa trên nửa dưới ở cái mương cá đằng nhà thằng cha Ba Khìa hồi tưng bửng sáng....' 

'Chắc đâu hồi khuya....' 'Trúng gió, té nước... ' Tiếng xì xào bàn góp thêm chi tiết như một thứ bịnh truyền nhiễm chuyền từ nhóm nầy sang nhóm kia, phá tan bầu không khí lạnh nhạt e dè từ khi chú Hai Một bước vô. Một tay tổ nào đó, ý chừng là bạn nhậu thân tình với nạn nhân, chêm vô một câu diễu vô duyên ớn. 'Chắc đâu cũng đốn hết mấy lít rồi nên nóng nảy trong mình, về khuya gặp nước, tắm mát rồi khoái chí tử nằm ì ra đó không chịu lên.'

Những cặp mắt bây giờ đổ dồn về phía tay anh chị ăn nói bạt mạng đó. Trách móc, khinh thị, bất bình. Biết mình nói hớ, anh ta cười cầu tài, sửa. 'Ậy… mà sinh ký tử quy. Chết trẻ khoẻ ma, chết già lụm khụm. Anh Sáu thọ như vậy là được rồi, năm mốt bước qua năm ba bước lợi đâu có bao nhiêu người qua khỏi cái cầu nầy. Ậy… mà đời bây giờ còn sống là còn khổ. Chính tôi đây nè, nhiều khi khổ quá mạng, cầu trời chết cho rảnh nợ mà không được.'

'Con vợ thằng Sáu nóng ruột chồng đi cả đêm không về nên trời vừa hừng hừng sáng là lo xách đèn đi kiếm, ai dè sự thể như vầy...' một tiếng đàn bà nhỏ nhẹ, nói với mọi người mà như nói với mình. 'Í hị!' Tiếng thở dài thương hại thay cho cái chấm câu.

Chú Hai Một quay qua cúi đầu chào người đàn bà, bà vừa nói tiếp vừa gật đầu chào lại, giọng nho nhỏ pha một chút mủi lòng.

'Tội nghiệp, cái thằng say sưa vậy mà cũng biết lo tưởng tới vợ con, trên bờ mương còn hai xâu thịt heo quay với một mớ bánh bò trắng nằm lăn lóc. Tao tiếc quá lượm đem về bỏ trong gạt-măng- giê... Cái số con vợ nó không được ăn heo quay, chồng đem về chưa tới ngõ đã lăn đùng ra theo ông theo  bà.'

'Tuần rồi ảnh với tôi còn leo lên nóc nhà lợp lại cái mái lá dột phía trước hết một buổi trời,' người đàn ông hồi nãy cũng cái mửng cũ vừa nói vừa khoe. 'Thiệt anh Sáu khỏe còn hơn tiên, hồi nào tới giờ ở nhà quê mà sống theo kiểu dân cậu, đâu cần động tới móng tay....' Anh ta đổi giọng vui vui. 'Chắc biết mình sắp đi nên bữa đó mới chịu khó trả nghĩa vợ lần chót.'

Nhiều tiếng cười tán thưởng ở phía đám thanh niên hòa chung với vài cái hứ bất bình từ đám đàn bà.

Chú Hai Một bây giờ mới quay về phía người đàn ông nọ. Chú biết là ai nhưng cũng không thèm để ý tới chuyện chào hỏi, cũng không thèm cười góp mà chỉ hất hàm một cách trống không về phía buồng.

'Ờ, ở trong đó đó,' Bà già vừa nói hồi nãy hiểu ý trả lời hớt mọi người. 'Tội nghiệp, sớm tới giờ hai mẹ con nó xà quần trong đó. Bây giờ chắc là đương lo thay quần áo cho ‘thẳng’. Bùn đất không... Hồi mới đem về.... ướt mèm ướt mẹp nên tụi nó xót ruột. Nhà không có đàn ông con trai để lo mấy chuyện đó nên tụi nó phải làm. Ðâu thằng Hai mầy vô coi coi, liệu giúp đỡ gì được mẹ con nó thì giúp.'

Thím Hai Một tới bây giờ mới vô tới hàng ba. Khác với chồng, thím thủng thẳng bước nhích nhích từng bước một, đầu cúi xuống, hai đầu khăn rằn hết đầu nầy đưa lên chùi nước mắt tới đầu kia đưa lên chùi nước miếng nước mũi. Người trong nhà chưa ai thấy mặt mày thím nhưng tiếng khóc xụt xùi hòa với tiếng hít khịt mũi đã nghe rõ ràng, nức nở đứt ruột đứt gan, lâm li như tiếng khóc dễ mủi lòng của bà con ruột thịt khi mất người thân thương.

Không mấy ai ngạc nhiên trước cảnh nầy. Chuyện thím khéo dư nước mắt khóc người 'thân sơ' dân làng Bình An đâu ai lạ lùng gì. Nghề nghiệp. Nghề nghiệp ít người theo như vợ chồng thím. Hai ông bà đã từ bao lâu nay trở thành một cặp bài trùng không thể thiếu trong mấy đám ma chẳng những quanh quẩn trong mấy cái cù lao giữa kinh Ruột Ngựa và kinh Tàu Hủ mà nhiều khi còn có người rước lên tới Chợ Ðệm, Bình Ðiền, Gò Ðen nữa. 

Một vài người khách ngạc nhiên quan sát, sao trên đời lại có người lạ lùng như vậy cà, mau nước mắt đã đành lại còn không biết mắc cỡ khi làm chuyện trên đời chỉ có một mình mình. Thím Hai Một khóc ngọt ngào, bất tận. Nước mắt như mưa tuôn trào đầy mặt. Não can tràng hơn tiếng than của đào thương trong gánh hát. Khóc đã đời thím cất giọng kể lể. 'Sáu ơi là Sáu, chú bỏ vợ yếu con thơ chú vội vàng đi đâu. 

Bao nhiêu người thương chú trên đời sao không ở lại. Âm phủ dương gian hai đàng cách trở, từ nay vợ con chú biết trông cậy vô ai? Sáu ơi là Sáu ơi. Ngày trước chú giúp người cô quả, chú thân thiện xóm làng, đầu trên chợ dưới, người dưng họ hàng, ai có chuyện gì chú không nề hà giúp đỡ. Sao người như chú mà trời bắt đi cho nỡ, còn những kẻ lỗi đạo vô nghì lại sống chật trời chật đất, tốn gạo tốn cơm...
Sáu ơi là Sáu ơi.'

Chú Hai Một quay mặt ra cửa, ngó mau về phía vợ, nhăn mày tỏ ý không bằng lòng—quá lố rồi đó, quá trong nước mắt thì còn chấp nhận được, quá trong lời than thì chạm tới biết bao nhiêu người, ăn của chủ nhà bao nhiêu mà đưa lưng mang tiếng oán. Tuy nghĩ bụng như vậy nhưng chú không nói gì, chỉ vén màn bước thẳng vô phòng trong.

Bóng tối âm u của ngọn đèn dầu phọng tim se bằng một miếng vải trắng bỏ trong cái dĩa dầu để dưới gầm giường và cây đèn cầy nhỏ đặt phía dưới chưn người chết chập chờn leo lét, không giúp cho đôi mắt quen với ánh sáng của chú Hai thấy gì hơn là một cụm tối dầy đặc, khổng lồ. 

Chú đứng định thần một hồi hèn lâu mới quen mắt lần. Con nhỏ Huê đương quay lưng về phía chú, mặt quay vô vách, đương giơ cao lên xăm xoi một cách dềnh dàng bộ đồ bà ba hàng màu hột gà của ba nó đâu như là mới vừa được lấy từ trong tủ ra, còn đầy những lằn xếp. Chị Sáu đương rờ rờ nắn nắn hai cánh tay co rút của người chết mà mấy ngón tay cong lại như đương thủ thế để cào cấu ai. Gương mặt chị thểu não pha lẫn nét chán chường. 

Chị biết bổn phận mình phải làm gì nhưng không biết bắt đầu từ đâu và bằng cách nào. Trong lòng chị đương có một sự tương tranh dữ dội giữa hai mặt sợ-thương. Thấy ánh sáng và đã đoán được ai bước vô, chị ngước mắt lên chờ đợi một mệnh lịnh, mệnh lịnh dưới hình thức đề nghị thiệt bình thường nhưng giúp chị ra khỏi cảnh bối rối hiện tại không biết mình phải làm gì mới đúng cách và trọn đạo.

'Chị Sáu với con Huê 'quá bộ' ra ngoài nhà tiếp khách đi,' chú Hai Một nói như ra lịnh, nói lựa chữ văn hoa một cách ăn trét. 'Bà con lối xóm nghe tin hồi nào không biết mà đã kéo tới chia buồn coi bộ hơi bộn rồi đó. Ðầy nhà! Mà tôi thấy có ai ở ngoài đó lo trầu cau nước nôi gì cho khách đâu,' Chú ngừng một chút ngó vô con Huê bây giờ mới day mặt lại phía ánh sáng. 'Với lại ba cái chuyện nầy nên để tôi. Nghề nghiệp ai người nấy làm. Chuyện nầy đâu phải ai cũng mó tay mó chưn vô được.' 

Một lần nữa chú ngó về phía con Huê. 'Ðàn bà con gái gần hơi người mới đi không nên đâu. Ðộc lắm. Về sau bị bịnh hậu khó lòng.' Mặt con Huê, nãy giờ nước mắt đã lăn rơi, buồn lâm ly, đổi sắc liền, mừng thấy rõ, nó bỏ bộ quần áo xuống rồi đi vòng về phía đầu giường của ba nó, sẵn sàng bước ra. 

Chị Sáu trái lại chỉ hơi khựng lại một chút khi nghe nhắc tới mấy tiếng không nên nhưng rồi cũng tiếp tục cố gắng tuột tay áo của chồng ra. Cái áo đã được mở nút cẩn thận, phơi màu da ngực xám ngắt của xác chết dưới ánh đèn. Cánh tay cứng đơ, cà huynh cà hoang, tay áo dính một lớp bùn mỏng thêm phần trở ngại. Chị bậm môi hè hụi giựt mạnh nhưng cũng không ích lợi gì, chỉ làm rớt lộp độp lớp bùn khô xuống giường như bánh tráng nướng bể. Bộ mặt người chết nhăn nhăn với cặp môi đã bắt đầu rút, lòi răng ra cười ngạo cảnh tượng. 

Cánh tay thây ma cứng cong, trì lại phản đối không cho thay bộ quần áo cuối cùng trong đời mình. Chú đánh thêm một đòn tâm lý trong khi thong thả cho tay vô túi trong lục kiến gói thuốc Job đỏ lận theo từ đằng nhà.

'Chết bất đắc kỳ tử linh lắm. Ngày giờ trùng thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Tránh trước thì hơn. Trùng tang liên táng xui mấy đời chớ không ít đâu. Chị với con Huê làm ơn dang ra cho tôi.'

Chú ngừng nói, đứng yên, điếu thuốc đã an vị trên môi, tay mặt cầm sẵn diêm quẹt nhưng chưa quẹt lửa, cố ý đợi hai người phụ nữ bước ra. Thân nhân nào cũng sẽ khó chịu khi thấy xác của người thân bị kéo nắn mạnh tay, mười người như một, ai cũng năn nỉ nầy nọ, xin xỏ vầy khác. Khó lòng. Chú thấy công việc mình làm phải mang tính cách thiêng liêng, bí mật, càng ít người biết mình làm gì với cái xác chết càng tốt. 

Chú đưa tay rờ rờ cái mặt lạnh tanh của thây ma, rồi bằng một cử chỉ thiệt nghề nghiệp chú đưa hai ngón tay cái-trỏ ra kéo kéo hai môi người chết lại cho khít khao hơn như ngầm nói tôi đã sẵn sàng rồi, mời bà con nhường chỗ cho tôi. Tay chú đụng vô chỗ lạnh hơn mình tưởng, chú chửi thầm trong bụng cái thằng nhậu nhẹt chết bờ chết buội, ngâm nước cả đêm để cho cái mặt lạnh còn hơn đá cẩm thạch ướp nước đá. 

Chú đưa mắt ngó con Huê rồi đão qua má nó. Thường thường mời thân nhân của người quá cố ra khỏi buồng chú chỉ cần xài tới mấy tiếng ‘không nên’ đã là quá đủ, họa hoằn lắm mới phải xài tới mấy điều dọa dẫm về chuyện bệnh hậu, trùng tang liên táng mà chú học lóm, khi đi đám đó đây, từ mấy bô lão biết chút ít bói toán thuốc men.

Người đàn bà bỏ cánh tay chồng xuống với một tiếng thở thiệt dài như là bà nín hơi từ lâu lắm bây giờ mới được phép thở. Cách bỏ xuống cũng nhẹ nhàng, ẩn chứa trong đó cả một trời thương yêu. Nhè nhẹ, chầm chậm bước lần về phía cữa. Khoảng cách chỉ vài bước mà như xa thăm thẳm, vừa bước đi vừa ngó ngoái lại như không muốn mất những phút giây chót với chồng. 

Ra khỏi đây rồi, lúc trở vô người chồng đầu ấp tay gối — người mới hôm qua còn gây gổ với chị — một sự gây gổ nhẹ nhàng càm ràm, quen thuộc trong bao nhiêu năm trời, khiến chị cảm thấy mình hiện diện và là một thứ gì khác với những đồ vật vô tri trong nhà

— bấy giờ sẽ thật sự trở thành một cái xác chết đúng nghĩa, hoàn toàn là một cái thây ma lạnh lẽo chờ tới giờ để được bỏ vô hòm đem chôn. Hư vô, mất tuyệt từ đấy. Xa cách đời đời, thật sự, tuyệt đối từ đây. Một xa cách mặc dầu không hình dung được, mới chỉ lấp ló trước mặt đã cắt đứt ruột gan, khiến chị chưa gì đã thấy mình bơ vơ, nhỏ nhoi lạc lõng hơn. 

Chị bật khóc thành tiếng, nấc nghẹn, mặc dầu đã cố dằn xuống ngay từ hồi thấy xác chồng nằm úp mặt nửa trên nửa dưới ở bờ mương — sợ nước mắt nhểu xuống mặt ổng ổng khó đi đầu thai. Chị bỗng nhiên thấy tức mình tại sao bữa hổm ổng đòi uống thêm xị nữa chị tiếc tiền và sợ ổng bịnh không cho con đi mua lại còn biểu nó dấu cái chai đi. 

Phải dè sớm như vậy ổng muốn uống mấy ghe tàu cũng bán nhà mua cho ổng không tiếc tiền. Chị cũng tức mình là tại sao mấy năm trước nghe phong thanh ổng mèo mỡ chị đã làm quá mạng, cằn nhằn cưỡi nhưỡi, cắn xé. Phải dè...

Phải dè... Chị kêu tên chồng, cách thân mến rất ít khi sử dụng từ ngày có đứa con đầu tiên. Con Huê áy náy nắm cánh tay mẹ, chỗ con chuột, mà nó có cảm giác là đầy xương, dẫn ra cửa. Mắt ngập nước, nó cũng ngó ngoái lại lần chót ba nó, vẫn còn nằm trong một vị thế lạ lùng, một cẳng co vô bụng, một cẳng thẳng ra luôn cả bàn chưn, như người đương kiếm cách leo lên khỏi mương nước, hai bàn tay quắp cứng ngắc hai nắm bùn bây giờ đã khô, mấy chỗ tứ chi ló ra khỏi quần áo bao trùm một màu xanh xám đen đen lạnh lẽo khiến nó bắt rùng mình. 

Chị vợ ngó lại lần nữa thi thể người chồng, gật đầu chào chú Hai Một, rồi như len lén giở màn bước ra. Những giọt nước mắt được kềm giữ quá lâu thong thả bò trên gương mặt chị, nhểu xuống ngực áo khi chị bắt gặp những ánh mắt thân tình chia xẻ niềm đau xót của bà con lối xóm bây giờ tới đã tới ngồi đứng chật nhà.

Chú Hai Một nao nao theo dõi hai mẹ con lúp xúp đi trong tiếng thút thít, ánh mắt chú đậu lại trên cái lưng đầy sức sống và bộ hậu láng o của đứa con gái — được ôm bằng cái áo bà ba bó sát và cái quần vải đen dầy ủi thẳng thớm. Chú nheo mắt với mình và cười cười...

Ngoài kia chú nghe rõ tiếng chào của chị Sáu với bà vợ mình. Tiếng khóc của bà ta nín bặt ngang xương. Chú nghe loáng thoáng câu trả lời của vợ: '... Ừ... Kể từ trưa mai cho tới giờ hạ huyệt tôi sẽ ở đây... Ừ.. tiền bạc gì. Ðừng có lo chạy cho mất công. Bà con mình không, ai cũng nghèo chứ đâu có dư dả gì...

Nói nào ngay, tôi cũng đâu giàu có gì hơn với mớ đó'. Tiếng khóc lại nổi lên, bi thương thập bội hơn giọng tỉ tê nhè nhè của vợ người quá cố. Dòm qua chỗ hở do tấm màn bị vướng, chú Hai Một thấy vợ mình đầu bù tóc rối dụi dụi mắt khóc kể như chết cha chết mẹ. Bà ta nhảy từ nhân vật nầy qua nhân vật kia. Ban đầu là bà mẹ vợ. '...

Sáu ơi là Sáu ơi, nhà nầy một mình mầy lo từ trong ra ngoài. Vợ con mầy giờ đây làm sao đủ sức chống chỏi với đời. Ði đâu thấy món ngon vật lạ mầy cũng mua về cho tao, bây giờ mỗi khi thấy quán thấy hàng làm sao tao không khóc được, Sáu ơi là Sáu ơi.' Rồi tới vợ, tới con gái, mỗi người thím đều sáng tác giùm một bài văn tế bình dân nôm na như vậy, kể công đức người chết, vài phần thiệt, vài phần phóng đại những hành trạng mà nếu nghe được chắc người chết cũng phải hổ ngươi. 

Chỉ có một điều là giọng kể lể của thím lâm ly quá, nước mắt của thím sụt sùi quá khiến người nghe không còn đủ bình tĩnh tâm trí để phân biệt đâu thiệt đâu ngoa. Một cảm giác xấu hổ mà chú thường có khi vợ khóc đám người quen như kiểu thằng cha Sáu Say nầy len lỏi vô tim chú. Chú ngờ ngợ như vợ mình làm điều gì sái quấy, quá đáng, hơn sự phải có của điều bình thường, hơn sự bắt buộc của nghề nghiệp. 

Vừa lúc đó con Huê quay lại, đưa tay kéo cái chéo tấm vải màn xuống cho kín cửa buồng. Chú dòm lom lom bàn tay tròn trịa của con nhỏ cho tới khi ánh sáng trong phòng trở thành lù mù. Chú đốt điếu thuốc, dựa vách ngó xác chết, thong thả hít từng ngụm khói say sưa. Mỗi khi trong người có chuyện buồn vui lẫn lộn, những hơi đầu tiên của điếu thuốc vẫn là một thứ thần dược giúp chú tỉnh táo trở về thực tại với một tinh thần sáng suốt vô biên. 

Chú vạch màn dòm ra ngoài nhà trên như là tìm kiếm ai, ánh mắt chú đậu lại phía có con Huê đương đứng. Nghĩ sao không biết chú bước hẳn ra ngoài tới một bàn, cầm lấy chai rượu đế rót đầy một ly lớn, mỉm cười chào mấy người ngồi ở bàn đó rồi quày quả bước vô. Chú cẩn thận bỏ màn xuống, kéo mí lại như ngại ánh sáng bên ngoài có thể chui vô phòng. Tới bên xác chết, chú thiệt sự bắt tay vô công việc: phun phun, bóp bóp sửa nắn lại cho vào vị thế bình thường bộ tứ chi trước đây đã cứng đơ cứng còng. 

Chú cắt rách tay áo và ống quần của xác chết bằng cái kéo nhỏ, vật liệu độc nhứt chú mang theo mình như một thứ dụng cụ nghề nghiệp. Chẳng bao lâu cái công việc mà người vợ nạn nhân loay quay hàng giờ không thực hiện được đã được chú hoàn thành mỹ mãn. Anh Sáu Say bây giờ đã thiệt sự ngủ say trong một tư thế thoải mái, thanh thản.

Chú Hai Một bước lùi một bước, ngắm nghía công trình mình, chú mỉm cười hài lòng và tự thưởng bằng chút cặn rượu còn sót lại trong ly...

Tôi náo nức thiệt tình! Tôi sẽ gặp được cặp vợ chồng truyền nhân chánh của một nghề đang sắp biến mất trong một xã hội trên đà chuyển mình Âu hóa như cái thành phố Sài-gòn nầy. Ðường có xa, có lạ cũng chỉ là dịp để mở rộng nhãn quan thôi ... 

Chúng tôi đi qua cầu chữ U ở bến Thuyền Buồm (Quai des Jonques), một cái cầu tuy lót cây nhưng cao chưa từng thấy. Chiếc mô-bi-lết già chạy tới đâu đà cây lót cầu rung rinh nhúc nhích la hét ầm ầm tới đó, những chiếc bù lon sắt khổng lồ đưa lên như hàm răng con quái vật cầu sẵn sàng cắn vô vỏ bánh xe. Cây ván trơn chao đảo tay lái, tôi phải kềm thật vững.

Ðã hết đâu. Lại còn qua một cái cầu chữ U khác y hịt như vậy ở ngay trước chợ Bình Ðông. Sao vùng nầy lạ lùng vậy, cầu cao không tráng xi-măng hay trải nhựa, chỉ lót bằng cây mà lại lót xuôi theo đường xe cộ chạy?

Người dẫn đường như đoán được ý tôi, giải thích ba hoa. 'Vùng nầy không có thế để làm dốc nên cầu phải xây hình chữ U, cũng không thể xây bằng vật liệu nặng vì bờ kinh hẹp, đất hai bên lại mềm, không có chỗ đúc móng chưn cầu. Phải xây cao cho ghe chài qua lại bỏ lúa vô chành hay lấy lúa từ trong chành ra chở đi Lục tỉnh, lên Nam Vang ... Ngày trước ghe chài ra vô khúc kinh nầy liền liền, bây giờ có thêm kho chứa ở Bến Tàu nên ít đi đó chớ.

Tuy không biết rõ ràng danh từ ‘chành’ là gì nhưng tôi cũng mường tượng đoán được đó là một thứ kho chứa trữ nên mần thinh không hỏi như mọi khi. Cảnh tượng quê nhiều hơn tỉnh của vùng nầy trở thành một thứ loại ven biên đô thị mới ngó qua đã bắt mắt nên tôi cũng làm biếng nghe thêm. Cái thằng cha nầy có khả năng nói chuyện nầy qua chuyện kia lòng vòng ba bốn ngày không hết, đừng nên khươi cho nó nói không nhằm lúc.

'Gần tới chưa?' Tôi hỏi cũng là cách dẫn anh ta vô chuyện chánh. 'Sao chưa thấy cái đình anh nói?'

'Ði đò qua bên bờ kia. Ðó là làng Bình An, đình Bình An cách bến đò chừng một cây số ngàn,' hắn trả lời rành rọt. 'qua đò rồi lội một đỗi nữa thì tới nhà họ. Không xa đâu.'

Lại còn thêm chuyện đò! Ánh mặt trời chói chang trên đỉnh đầu. Coi bộ hơi trưa. Sài-gòn lẩm rẩm mà rộng thinh thang, đi nửa ngày từ trung tâm chưa ra tới ven biên.

Con đò ngang đưa khách qua bên đình do một cô gái trắng trẻo độ mười sáu mười bảy tuổi thong thả đẩy đưa mái chèo. Những nhịp đẩy-kéo căng lên căng xuống bộ ngực tròn mạnh thiếu nữ. Nàng thành thạo, không tỏ vẻ gì tốn sức tốn công. Tôi chợt nhớ tới chuyện thơ nàng Tiên Bửu xinh đẹp, thông minh chèo đò. Chỉ tiếc mình không có bộ râu dài phất phơ và tài đối đáp như ông Trượng.

Cảnh vật hai bên bờ kinh hiền hòa. Nhà cửa khang trang của một vùng quê trù phú. Mạ non xanh mởn. Sóng lụa rung rinh trên đầu lúa. Gió mát thơm mùi hạt lúa còn đương ngậm sữa. Vài căn nhà lá ẩn hiện sau những tàn cây mít, vú sữa xum xuê. 

Nét thanh bình có thể cảm thấy vương vương lãng đãng cùng khắp không khí. Trong khung cảnh như vậy mà gặp được một cái đám ma để quan sát luôn tài nghệ của vợ chồng Hai Một 'ra đám', 'khóc đám' thì còn gì thích thú bằng. Một công hai ba việc. Khỏi phải đi về chờ đợi lôi thôi.

Tôi mừng rỡ khi nghe tiếng kèn đám ma văng vẳng từ xa xa khuất đâu trong xóm. Trúng mối rồi. Mấy thuở trời chìu lòng người, cầu được ước thấy.

Vậy mà tôi không được chứng kiến gì hết những điều cần chứng kiến, mặc dầu kèn đám ma đương ò -e ngay tại nhà ông Hai Một. Tôi không gặp một ông 'nhưng quan' tài nghệ đặc biệt, điều khiển mọi chuyện liên quan đến động quan, di quan bằng nhạc của hai khúc tre. 

Tôi không gặp một người đàn bà bán nước mắt, khóc mướn trong mấy đám ma, ré lên từng hồi cắt dạ rồi xuống giọng tỉ tê bi thảm đau thương, kéo dài ngày nầy qua ngày khác từ lúc tẩn liệm cho tới khi hạ huyệt. Những hình ảnh lạ lùng tôi có trong trí vẽ ra do người dẫn đường khi giới thiệu về cặp kỳ nhân nầy không thấy đâu nữa. 

Còn lại chăng là một cặp vợ chồng già héo úa từ sâu thẳm trong lòng héo ra, một thứ cây chết rũ, một loại người bị chấn thương do Tây tà tra tấn bằng bàn tay sắt bọc vải, bầm nát ngũ phủ lục tạng tuy bên ngoài vẫn còn chút nào đó dáng vẻ bình thường.

Người đàn ông ngồi đó, mặt co rúm nhăn nheo của một thứ trái chín héo vì quá nắng, mắt ơ hờ ngó ra con đường đất đỏ bụi mù trước mặt, bất động tới cả từng thớ thịt mặt. Tôi biết chắc chắn cái hàng rào bông bụp đầy bông nở đỏ thắm ngoài kia, cái hàng rào đặc biệt được đóng cột bằng mấy cây so đũa trái lòng thòng và sợi dây kẽm giăng kế đó, nơi con gái ông phơi quần áo hằng ngày, không lọt vào trong giác trường của ông. Kể cả những người học trò đạo tỳ mặc quần áo đen viền trắng lăn xăn lít xít vì chuyện của thầy cũng vậy thôi, không có. 

Thời gian và hoạt cảnh trên cõi đời nầy hình như đối với ông không còn nữa. Dàn đờn trổi ò-e ngưng trổi không biết bao nhiêu chập, tôi để ý nhưng không thấy vợ chồng ông Hai Một nhúc nhích cục kịt gì, ngay cả khi một người đệ tử tới trước mặt ông cung kính xin phép cho mình được thay ông điều khiển cuộc 'di quan', ông cũng không trả lời hay hạ cái màn vô hồn trước ánh mắt mình xuống, mặc cho đám đệ tử và ông Hòa Thượng già điều khiển việc khiêng cái hàng ra khỏi khung cửa chật hẹp của căn nhà. 

Hai chung rượu để trên nắp hàng sóng sánh rồi tràn ra vài giọt do sự điều khiển không thành thạo của người đệ tử trẻ ông cũng không thấy, không biết. Hồn ông đương ở trong một cảnh giới ta-bà nào đó xa xăm, chỉ cái thân xác ngũ uẩn hiện diện mà thôi.

Ðám ma ra tới đầu ngõ, ông Hai Một mới choàng tỉnh khỏi cơn mộng du, đứng dậy bước chậm rãi theo vài ba người đi chót sau khi đã ngó bà vợ và lắc đầu trong tiếng thở dài. Người đàn bà ngồi trên cái ghế dựa, mắt vô hồn ngó tôi khi tôi tới kế bên nói mấy lời chia buồn cho phải phép. 

Không có một giọt nước mắt nào trên khóe mắt của người đàn bà suối lệ dễ tuông này. Không có cả một hít, khịt mũi nhỏ nhoi. Không có cả chuyện đỏ hoe hai mắt hay tiếng kể lể phân bua. Vậy đó. Một sự im lặng tuyệt đối của môi trường chân không. Vô lý tới khó tin.

Tôi ngó lại lần nữa tấm hình người quá cố. Cô gái có nụ cười thật buồn nhưng vẻ trẻ trung làm nao nao lòng người. Ðôi mắt sâu thăm thẳm của cô khiến ai nấy dòm qua một lần cũng phải ngó lại một lần nữa. Cái đẹp man dại và lôi cuốn. Cái đẹp của một cánh đồng đầy hoa thắm bên triền núi rộng cao. 

Có thể hình ảnh cô gái trẻ mới chết có sức mạnh tạo xúc động cho người sống—và một chút bằng lòng vì sự bất hạnh giáng xuống người khác chớ không phải mình—khiến phải ngó thêm. Tôi thấy trí mình coi bộ cải lương khi bỗng nhớ tới câu thơ có mấy chữ 'hồng nhan bạc mệnh.'

'Vợ chồng họ làm nghề thất đức nên bây giờ như vậy đó,' người dẫn đường kéo tôi về thực tế khi anh bấm tay tôi nói nhỏ. 'Cha tẩn liệm, di quan người khác lôi thôi, nên Trời khiến tới phiên con mình thì sững sờ muốn tự tay săn sóc cũng không làm được. Tụi học trò đạo tỳ nó làm đâu có đúng lễ. 

Hồn ma trước đây họ về trả thù đó. Biết bao nhiêu lần ổng bẻ tay bẻ chưn thiên hạ mạnh tay hay làm ẩu xị cho qua. Biết bao nhiêu lần ổng thay áo thay quần hay tẩn liệm dụt chạc, nhứt là người nghèo... Ðể rồi coi, hồn cô ta còn lẩn quất nhiều ngày trên trần thế chưa xuống dưới đó liền được đâu. Thiếu lễ đi đâu có xuôi chèo mát mái. Nhiều khi nó về nó phá nữa là khác.'

Không đồng ý với nhận xét nầy, nhưng tôi không cãi. Con người ta sinh ra vốn là mục tiêu cho những tấn kích cách nầy cách nọ của tất cả ai khác trên đời, huống gì chú Hai Một làm một nghề thiên hạ chỉ thấy sợ hãi và xa cách.

Không muốn khơi mào một cuộc đấu khẩu vô ích, tôi chỉ qua thím Hai Một, chưa kịp nói gì thì người dẫn đường đã lên tiếng, lần này pha một chút giọng thầy đời.

'Thói thường thương vay khóc mướn tới khi cần khóc cho mình thì hết nước mắt.'

Phải, điều gì xài quá thì mau hết, cái lý đó cũng đâu có gì là khó hiểu. Nói một cách trừu tượng, cái tình thương bà ta xài cho thiên hạ trong bao nhiêu năm trường 'khóc đám' khiến cho bà ta cạn tuyệt tình thương đối với con gái mình. Suối lệ cạn nguồn người ta thường nói vậy hoài.

Vâng, lý luận này có vẻ hữu lý nếu — và nếu, và nếu
— tình thương là một dạng của vật chất cụ thể. Con người ta thường tỏ ra mình thông thái, mình phải, mình hay như cái anh chàng nói nhiều nầy. Mấy ai biết được và thông cảm được với vợ chồng ông nhưng quan Hai Một. 

Tình thương con biển trời lai láng của họ khiến tất cả những biểu lộ bình thường khác đã trở thành vô nghĩa, không phù hợp. Với người sơ tôi đã khóc, và đã khóc mùi mẫn, với con gái cưng của tôi, tôi cũng khóc như vậy hay thôi sao? Tại sao tôi phải giống thiên hạ biểu lộ tình thương bằng nước mắt kia chứ? 

Có sự khác biệt giữa con gái tôi và người thiên hạ chứ? Nếu khóc đám làm xôm đám chớ không biểu lộ tình yêu thương chân thật thì cái gì mới diễn tả được lòng thương con của tôi đây. Con ơi, con nỡ bỏ cha mẹ già một mình ra đi sao con...

Tôi dòm lại dáng thất thểu của chú Hai Một sau đuôi đoàn người. Bước thấp bước cao, hụt hẫng như một hình nộm được điều khiển vụng về. Tôi ngó lại thím Hai Một, cũng dáng ngồi đó không biết bao lâu rồi, hai tay buông xuôi trên vế, bất động của một pho tượng đất sét, thểu não của một thứ người tuyết đương tan rã từ từ. Thím sẽ ngã xuống. Chắc chắn như vậy.

Tôi bỏ ra về, không dám ngó lại một tấm hình khác ở trên bàn thờ. Cuộc đời người con gái đó bình thường, cái chết cũng có thể rất bình thường nhưng một nhân duy-ên đặc biệt đã hé mở cho tôi một cánh cửa để nhận thấy rõ ràng về tấm lòng nhỏ nhen, ganh ghét của người đời nói chung và nỗi đau đớn khôn cùng của cặp vợ chồng già mất con trẻ nói riêng.

Trên đường về không khí bỗng nhiên nặng nề u ám ngang. Tôi ngậm câm cho tới lúc chia tay.

Tại sao? Tôi xúc động vì lòng thương con trời biển bao la đến nỗi mất hồn của cặp vợ chồng nhưng quan - khóc đám Hai Một. Mà cũng có lẽ là do tình cảm trân trọng đối với một cánh rừng đang chứa chấp một loài trân cầm dị điểu kỳ hoa hiếm hoi đang trên đà tuyệt chủng. 

Sau nầy lắm lúc ngồi ôm súng ở một vùng đồi núi cao nguyên, đêm về bốn bề tĩnh mịch, giữa cảnh trùng trùng của bóng tối bao la, trí nhớ bình bồng trôi về quá khứ, tôi ngạc nhiên thấy kỷ niệm của mình về Sàigòn không chỉ nằm trong chỗ những sinh hoạt ồn ào tục tằn ở các khu ổ bùn lầy nước đọng từng sống một thời gian dài lúc trẻ, và những nơi có kiến trúc nguy nga tráng lệ có dịp đặt chơn tới sau nầy khi đã thành nhơn, mà còn nằm ở cảnh trí đơn giản của một buổi sáng ven đô nơi ít người biết tới là làng Bình An bên kinh Ruột Ngựa, chỗ căn nhà có hàng rào bông bụp, xen kẽ bằng hàng cây so đũa lòng thòng trái...

Không ai chịu mất thì giờ đào sâu vào chốn tận cùng tâm hồn mình để tìm hiểu những yếu tố cụ thể nào khiến mình yêu đậm đà quê hương xứ sở, thân mến tuyệt cùng với nơi mình lớn lên trong buổi đầu đời.

Mà cần gì tìm hiểu nguyên nhân?

Sàigòn cũng vậy, đối với tôi thân thiết, đáng nhớ, xa trong thực thức nhưng tiềm thức không bao giờ xa. Bao nhiêu đó đã là quá đủ. Một vài chi tiết cụ thể về nơi nầy nơi nọ, người nầy người kia, nói cho cùng, cũng chỉ như một nhúm sao nhỏ nhoi trong vũ trụ bao la của triệu triệu dãy Ngân Hà.

Xem thêm:

Biển trời lai láng

Gần nửa đời người lăn lóc đó đây trên nhiều khu khác biệt của đất Sài-gòn vậy mà tôi chỉ thấy được hai mặt, hoặc tráng lệ nguy nga đè bẹp con người dưới gông cùm kim tiền vật chất, hoặc bùn lầy nước đọng chết đuối con người bằng những thứ tầm thường nhỏ mọn như miếng ăn chỗ ở. 

Không có bộ mặt nào khác hơn. Sài-gòn đối với tôi, như vậy trên bản chất giống bất cứ một thành phố nào trên thế giới, không thể tìm thấy tánh cách thuần túy Việt Nam. Tôi một thời lơ là với Sài -gòn cũng vì lẽ đó. 

Thế nhưng có ai chơi cắc cớ hỏi tính chất Việt của một thành phố là cái gì, nằm trong địa hạt nào của muôn ngàn dáng vẻ biểu hiện từ văn minh đến văn hóa, chắc thế nào tôi cũng ậm ừ cho qua bởi không thể nào vẽ lên, tả được những nét tận tường. 

Ổ chuột và những căn nhà chông chênh trên mặt sông bùn lầy đen đúa thì hiện diện ở bất cứ thành phố nào của xã hội nghèo nàn, nhất là vùng Ðông Nam Á. Xã hội tân tiến Tây phương ít xóm nghèo, ít hang cùng ngõ hẻm hơn, ít nhưng không phải là không. Nhà lầu cao với những kiến trúc tân kỳ càng ngạo nghễ, đẹp mắt càng không thể tượng trưng cho Việt chất. 

Chộp nắm được phần nào dễ thương, là lạ trong kiến trúc, trong lối ăn nếp ở, trong cách xử thế tiếp vật, trong một nghề nghiệp đặc biệt, tôi, lòng lúc đó đương lạnh tanh, nôn nao sung sướng như hồi nhỏ được về quê thấy lại cái lò gạch cũ, nghe được mùi thơm từ khu vườn mía Tây của người láng giềng, ngó mãn nhãn những miếng ruộng lớn đại nối tiếp nhau chạy tới mút chân trời, hay thấy con sông hiền hòa thỉnh thoảng có vài chiếc ghe lồng trôi chầm chậm...

Ðiều dễ thương đối với tôi cũng bình thường thôi. Thường là những căn nhà ở vùng Bà Chiểu, Thủ Ðức, ba gian hai chái, vách bổ kho, mái ngói âm dương, cột danh mộc tròn lên nước bóng lưỡng dựng chững chạc trên từng tảng đá xanh vuông vức, trong nhà đối liễn vẫn còn treo trên những vị trí trang trọng. 

Hay một cái bàn 'ông thiên' giữa trời thường thấy ở vùng Giồng Ông Tố với hình ảnh người chủ gia đình, lúc vừa chụp tối, bận áo bà ba hai tay chấp nắm nhang xá xá bốn phương trời. Hoặc một cái gáo dừa gắn cán dài úp trên lu nước dựng ngoài mái hiên bắt gặp thường xuyên từ khoảng Cầu Hàn đổ ra đến nửa đường đi Nhà Bè hay từ phía Phú Lâm đổ lên Gò Ðen. 

Có những hình ảnh nhỏ hơn và tầm thường hơn như tiếng võng đưa kẽo-kẹt vào lúc giữa trưa trời đứng gió. Võng phải treo phía trên một cái giường tre khập khễnh mới đúng điệu, hòa hợp vời cảnh trí xa xa là một bụi tre mà ngọn và tất cả lá đều đương đứng im lìm trầm ngâm ngó trời như thường thấy ở xóm Cầu Tre trước đây thì càng tốt.

Nhưng tôi chưa đủ thời giờ để nhìn cho thỏa mắt, chưa đủ lớn để chíp vô ký ức cất làm kỷ niệm riêng cho đời mình thì các cảnh trí trên phần nhiều đã bị sóng thời gian tàn nhẫn phủ lấp chìm hay bóp cho biến dạng theo sự đổi thay tất nhiên của xã hội. Chúng mất hút đi mau chóng, tới khi tôi kịp rãnh rỗi ngó lại thì còn chẳng thấy được bao nhiêu.

À, hình như là Sài- gòn phát triển theo tốc độ phi mã của thời đại tân tiến nên tiêu diệt mất những vết tích nhà quê nghèo nàn nhưng dễ thương của một sinh hoạt tiền đô thị mà trước đây tôi tưởng lầm là nét chấm phá nào đó của Việt tính. Nhưng không sao, tôi biết được bịnh mình. 

Mình thèm, mình thiếu trong máu huyết một mảnh trời quê và đương đòi Sài-gòn cung cấp cho một chút quê mùa đó. Ðô thị vây hãm tầm mắt bằng nhà cao, hãng xưởng và xe bụi, Sài-gòn giới hạn tâm hồn người bằng chuyện thành phố lẩm cẩm tình-tiền-thù không có gì đặc trưng, tôi cảm thấy thiếu một khung trời khoáng đãng, thèm một chút hoàn cảnh thuận tiện để buông thả tâm hồn, tôi thiếu tình người ở trạng thái sơ tâm...


Phật pháp ứng dụng Biển trời lai láng

Trong tâm thái hoài cổ nao nao của nỗi thèm khát đó tôi được nghe chuyện hai vợ chồng chú Hai Một nhưng quan, khóc đám.

Như bao nhiêu lần trước, Chú Hai Một khi vô tới hàng ba, dợm cẳng bước lên ngạch cửa, thì quay về phía sau rầy dức vợ sao chậm lục còn hơn bà già đi âm phủ rồi xăn xáy bước ào vô nhà như con trốt, bỏ mặc kệ thím Hai còn đủng đỉnh đánh-đồng-xa đâu đó mút tí tè ngoài đầu ngõ.

Nhiều người ngưng chuyện trò len lén ngước lên quan sát người khách mới, cách quan sát có chút tò mò đó, nhưng e dè, xa cách. Nhiều người, cử chỉ bỗng nhiên chậm rãi hơn như đương bận dồn hết giác quan để bí mật theo dõi chuyện gì đó xảy ra chung quanh. Có người còn liếc liếc rồi lại giả bộ cúi xuống hớp ly nước dở dang nãy giờ để lơ là trước mặt. 

Không một câu hỏi nào được nói lên thành lời, chỉ có những câu hỏi thầm ngầm chứa trong thái độ và cử chỉ. Chú Hai Một tuy vậy cũng đã biết mình phải nói gì nên lên tiếng trước, chú nói trống không nhưng thật ra là nói với toàn thể những người đương có mặt.

'Ðược rồi, để đó tôi lo liệu cho. Bà con mình không chớ ai vô đây,' chú hỏi tiếp theo sau khi dòm sơ qua một vòng từ những người ngồi ở cái bàn gần cửa tới một số người trai trẻ ngồi bỏ chưn thòng xuống đất trên bộ ngựa rồi tới những người hơi lạ lạ ngồi tuốt trong gần chỗ cái màn cửa ngăn với nhà trong. 'Mà hồi nào vậy? Hôm kia hôm kìa gì đây tôi còn thấy ảnh đi băng-xiên băng-nai, té lên té xuống trước nhà tôi, quần ống cao ống thấp, lè nhè, con nít chạy theo coi rùm trời. Gì mà mau vậy?' 

Ba bốn tiếng giọng thanh niên, mau mắn tranh nhau nói với khách. 'Chị Sáu thấy xác ảnh nằm vắt vẻo nửa trên nửa dưới ở cái mương cá đằng nhà thằng cha Ba Khìa hồi tưng bửng sáng....' 

'Chắc đâu hồi khuya....' 'Trúng gió, té nước... ' Tiếng xì xào bàn góp thêm chi tiết như một thứ bịnh truyền nhiễm chuyền từ nhóm nầy sang nhóm kia, phá tan bầu không khí lạnh nhạt e dè từ khi chú Hai Một bước vô. Một tay tổ nào đó, ý chừng là bạn nhậu thân tình với nạn nhân, chêm vô một câu diễu vô duyên ớn. 'Chắc đâu cũng đốn hết mấy lít rồi nên nóng nảy trong mình, về khuya gặp nước, tắm mát rồi khoái chí tử nằm ì ra đó không chịu lên.'

Những cặp mắt bây giờ đổ dồn về phía tay anh chị ăn nói bạt mạng đó. Trách móc, khinh thị, bất bình. Biết mình nói hớ, anh ta cười cầu tài, sửa. 'Ậy… mà sinh ký tử quy. Chết trẻ khoẻ ma, chết già lụm khụm. Anh Sáu thọ như vậy là được rồi, năm mốt bước qua năm ba bước lợi đâu có bao nhiêu người qua khỏi cái cầu nầy. Ậy… mà đời bây giờ còn sống là còn khổ. Chính tôi đây nè, nhiều khi khổ quá mạng, cầu trời chết cho rảnh nợ mà không được.'

'Con vợ thằng Sáu nóng ruột chồng đi cả đêm không về nên trời vừa hừng hừng sáng là lo xách đèn đi kiếm, ai dè sự thể như vầy...' một tiếng đàn bà nhỏ nhẹ, nói với mọi người mà như nói với mình. 'Í hị!' Tiếng thở dài thương hại thay cho cái chấm câu.

Chú Hai Một quay qua cúi đầu chào người đàn bà, bà vừa nói tiếp vừa gật đầu chào lại, giọng nho nhỏ pha một chút mủi lòng.

'Tội nghiệp, cái thằng say sưa vậy mà cũng biết lo tưởng tới vợ con, trên bờ mương còn hai xâu thịt heo quay với một mớ bánh bò trắng nằm lăn lóc. Tao tiếc quá lượm đem về bỏ trong gạt-măng- giê... Cái số con vợ nó không được ăn heo quay, chồng đem về chưa tới ngõ đã lăn đùng ra theo ông theo  bà.'

'Tuần rồi ảnh với tôi còn leo lên nóc nhà lợp lại cái mái lá dột phía trước hết một buổi trời,' người đàn ông hồi nãy cũng cái mửng cũ vừa nói vừa khoe. 'Thiệt anh Sáu khỏe còn hơn tiên, hồi nào tới giờ ở nhà quê mà sống theo kiểu dân cậu, đâu cần động tới móng tay....' Anh ta đổi giọng vui vui. 'Chắc biết mình sắp đi nên bữa đó mới chịu khó trả nghĩa vợ lần chót.'

Nhiều tiếng cười tán thưởng ở phía đám thanh niên hòa chung với vài cái hứ bất bình từ đám đàn bà.

Chú Hai Một bây giờ mới quay về phía người đàn ông nọ. Chú biết là ai nhưng cũng không thèm để ý tới chuyện chào hỏi, cũng không thèm cười góp mà chỉ hất hàm một cách trống không về phía buồng.

'Ờ, ở trong đó đó,' Bà già vừa nói hồi nãy hiểu ý trả lời hớt mọi người. 'Tội nghiệp, sớm tới giờ hai mẹ con nó xà quần trong đó. Bây giờ chắc là đương lo thay quần áo cho ‘thẳng’. Bùn đất không... Hồi mới đem về.... ướt mèm ướt mẹp nên tụi nó xót ruột. Nhà không có đàn ông con trai để lo mấy chuyện đó nên tụi nó phải làm. Ðâu thằng Hai mầy vô coi coi, liệu giúp đỡ gì được mẹ con nó thì giúp.'

Thím Hai Một tới bây giờ mới vô tới hàng ba. Khác với chồng, thím thủng thẳng bước nhích nhích từng bước một, đầu cúi xuống, hai đầu khăn rằn hết đầu nầy đưa lên chùi nước mắt tới đầu kia đưa lên chùi nước miếng nước mũi. Người trong nhà chưa ai thấy mặt mày thím nhưng tiếng khóc xụt xùi hòa với tiếng hít khịt mũi đã nghe rõ ràng, nức nở đứt ruột đứt gan, lâm li như tiếng khóc dễ mủi lòng của bà con ruột thịt khi mất người thân thương.

Không mấy ai ngạc nhiên trước cảnh nầy. Chuyện thím khéo dư nước mắt khóc người 'thân sơ' dân làng Bình An đâu ai lạ lùng gì. Nghề nghiệp. Nghề nghiệp ít người theo như vợ chồng thím. Hai ông bà đã từ bao lâu nay trở thành một cặp bài trùng không thể thiếu trong mấy đám ma chẳng những quanh quẩn trong mấy cái cù lao giữa kinh Ruột Ngựa và kinh Tàu Hủ mà nhiều khi còn có người rước lên tới Chợ Ðệm, Bình Ðiền, Gò Ðen nữa. 

Một vài người khách ngạc nhiên quan sát, sao trên đời lại có người lạ lùng như vậy cà, mau nước mắt đã đành lại còn không biết mắc cỡ khi làm chuyện trên đời chỉ có một mình mình. Thím Hai Một khóc ngọt ngào, bất tận. Nước mắt như mưa tuôn trào đầy mặt. Não can tràng hơn tiếng than của đào thương trong gánh hát. Khóc đã đời thím cất giọng kể lể. 'Sáu ơi là Sáu, chú bỏ vợ yếu con thơ chú vội vàng đi đâu. 

Bao nhiêu người thương chú trên đời sao không ở lại. Âm phủ dương gian hai đàng cách trở, từ nay vợ con chú biết trông cậy vô ai? Sáu ơi là Sáu ơi. Ngày trước chú giúp người cô quả, chú thân thiện xóm làng, đầu trên chợ dưới, người dưng họ hàng, ai có chuyện gì chú không nề hà giúp đỡ. Sao người như chú mà trời bắt đi cho nỡ, còn những kẻ lỗi đạo vô nghì lại sống chật trời chật đất, tốn gạo tốn cơm...
Sáu ơi là Sáu ơi.'

Chú Hai Một quay mặt ra cửa, ngó mau về phía vợ, nhăn mày tỏ ý không bằng lòng—quá lố rồi đó, quá trong nước mắt thì còn chấp nhận được, quá trong lời than thì chạm tới biết bao nhiêu người, ăn của chủ nhà bao nhiêu mà đưa lưng mang tiếng oán. Tuy nghĩ bụng như vậy nhưng chú không nói gì, chỉ vén màn bước thẳng vô phòng trong.

Bóng tối âm u của ngọn đèn dầu phọng tim se bằng một miếng vải trắng bỏ trong cái dĩa dầu để dưới gầm giường và cây đèn cầy nhỏ đặt phía dưới chưn người chết chập chờn leo lét, không giúp cho đôi mắt quen với ánh sáng của chú Hai thấy gì hơn là một cụm tối dầy đặc, khổng lồ. 

Chú đứng định thần một hồi hèn lâu mới quen mắt lần. Con nhỏ Huê đương quay lưng về phía chú, mặt quay vô vách, đương giơ cao lên xăm xoi một cách dềnh dàng bộ đồ bà ba hàng màu hột gà của ba nó đâu như là mới vừa được lấy từ trong tủ ra, còn đầy những lằn xếp. Chị Sáu đương rờ rờ nắn nắn hai cánh tay co rút của người chết mà mấy ngón tay cong lại như đương thủ thế để cào cấu ai. Gương mặt chị thểu não pha lẫn nét chán chường. 

Chị biết bổn phận mình phải làm gì nhưng không biết bắt đầu từ đâu và bằng cách nào. Trong lòng chị đương có một sự tương tranh dữ dội giữa hai mặt sợ-thương. Thấy ánh sáng và đã đoán được ai bước vô, chị ngước mắt lên chờ đợi một mệnh lịnh, mệnh lịnh dưới hình thức đề nghị thiệt bình thường nhưng giúp chị ra khỏi cảnh bối rối hiện tại không biết mình phải làm gì mới đúng cách và trọn đạo.

'Chị Sáu với con Huê 'quá bộ' ra ngoài nhà tiếp khách đi,' chú Hai Một nói như ra lịnh, nói lựa chữ văn hoa một cách ăn trét. 'Bà con lối xóm nghe tin hồi nào không biết mà đã kéo tới chia buồn coi bộ hơi bộn rồi đó. Ðầy nhà! Mà tôi thấy có ai ở ngoài đó lo trầu cau nước nôi gì cho khách đâu,' Chú ngừng một chút ngó vô con Huê bây giờ mới day mặt lại phía ánh sáng. 'Với lại ba cái chuyện nầy nên để tôi. Nghề nghiệp ai người nấy làm. Chuyện nầy đâu phải ai cũng mó tay mó chưn vô được.' 

Một lần nữa chú ngó về phía con Huê. 'Ðàn bà con gái gần hơi người mới đi không nên đâu. Ðộc lắm. Về sau bị bịnh hậu khó lòng.' Mặt con Huê, nãy giờ nước mắt đã lăn rơi, buồn lâm ly, đổi sắc liền, mừng thấy rõ, nó bỏ bộ quần áo xuống rồi đi vòng về phía đầu giường của ba nó, sẵn sàng bước ra. 

Chị Sáu trái lại chỉ hơi khựng lại một chút khi nghe nhắc tới mấy tiếng không nên nhưng rồi cũng tiếp tục cố gắng tuột tay áo của chồng ra. Cái áo đã được mở nút cẩn thận, phơi màu da ngực xám ngắt của xác chết dưới ánh đèn. Cánh tay cứng đơ, cà huynh cà hoang, tay áo dính một lớp bùn mỏng thêm phần trở ngại. Chị bậm môi hè hụi giựt mạnh nhưng cũng không ích lợi gì, chỉ làm rớt lộp độp lớp bùn khô xuống giường như bánh tráng nướng bể. Bộ mặt người chết nhăn nhăn với cặp môi đã bắt đầu rút, lòi răng ra cười ngạo cảnh tượng. 

Cánh tay thây ma cứng cong, trì lại phản đối không cho thay bộ quần áo cuối cùng trong đời mình. Chú đánh thêm một đòn tâm lý trong khi thong thả cho tay vô túi trong lục kiến gói thuốc Job đỏ lận theo từ đằng nhà.

'Chết bất đắc kỳ tử linh lắm. Ngày giờ trùng thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Tránh trước thì hơn. Trùng tang liên táng xui mấy đời chớ không ít đâu. Chị với con Huê làm ơn dang ra cho tôi.'

Chú ngừng nói, đứng yên, điếu thuốc đã an vị trên môi, tay mặt cầm sẵn diêm quẹt nhưng chưa quẹt lửa, cố ý đợi hai người phụ nữ bước ra. Thân nhân nào cũng sẽ khó chịu khi thấy xác của người thân bị kéo nắn mạnh tay, mười người như một, ai cũng năn nỉ nầy nọ, xin xỏ vầy khác. Khó lòng. Chú thấy công việc mình làm phải mang tính cách thiêng liêng, bí mật, càng ít người biết mình làm gì với cái xác chết càng tốt. 

Chú đưa tay rờ rờ cái mặt lạnh tanh của thây ma, rồi bằng một cử chỉ thiệt nghề nghiệp chú đưa hai ngón tay cái-trỏ ra kéo kéo hai môi người chết lại cho khít khao hơn như ngầm nói tôi đã sẵn sàng rồi, mời bà con nhường chỗ cho tôi. Tay chú đụng vô chỗ lạnh hơn mình tưởng, chú chửi thầm trong bụng cái thằng nhậu nhẹt chết bờ chết buội, ngâm nước cả đêm để cho cái mặt lạnh còn hơn đá cẩm thạch ướp nước đá. 

Chú đưa mắt ngó con Huê rồi đão qua má nó. Thường thường mời thân nhân của người quá cố ra khỏi buồng chú chỉ cần xài tới mấy tiếng ‘không nên’ đã là quá đủ, họa hoằn lắm mới phải xài tới mấy điều dọa dẫm về chuyện bệnh hậu, trùng tang liên táng mà chú học lóm, khi đi đám đó đây, từ mấy bô lão biết chút ít bói toán thuốc men.

Người đàn bà bỏ cánh tay chồng xuống với một tiếng thở thiệt dài như là bà nín hơi từ lâu lắm bây giờ mới được phép thở. Cách bỏ xuống cũng nhẹ nhàng, ẩn chứa trong đó cả một trời thương yêu. Nhè nhẹ, chầm chậm bước lần về phía cữa. Khoảng cách chỉ vài bước mà như xa thăm thẳm, vừa bước đi vừa ngó ngoái lại như không muốn mất những phút giây chót với chồng. 

Ra khỏi đây rồi, lúc trở vô người chồng đầu ấp tay gối — người mới hôm qua còn gây gổ với chị — một sự gây gổ nhẹ nhàng càm ràm, quen thuộc trong bao nhiêu năm trời, khiến chị cảm thấy mình hiện diện và là một thứ gì khác với những đồ vật vô tri trong nhà

— bấy giờ sẽ thật sự trở thành một cái xác chết đúng nghĩa, hoàn toàn là một cái thây ma lạnh lẽo chờ tới giờ để được bỏ vô hòm đem chôn. Hư vô, mất tuyệt từ đấy. Xa cách đời đời, thật sự, tuyệt đối từ đây. Một xa cách mặc dầu không hình dung được, mới chỉ lấp ló trước mặt đã cắt đứt ruột gan, khiến chị chưa gì đã thấy mình bơ vơ, nhỏ nhoi lạc lõng hơn. 

Chị bật khóc thành tiếng, nấc nghẹn, mặc dầu đã cố dằn xuống ngay từ hồi thấy xác chồng nằm úp mặt nửa trên nửa dưới ở bờ mương — sợ nước mắt nhểu xuống mặt ổng ổng khó đi đầu thai. Chị bỗng nhiên thấy tức mình tại sao bữa hổm ổng đòi uống thêm xị nữa chị tiếc tiền và sợ ổng bịnh không cho con đi mua lại còn biểu nó dấu cái chai đi. 

Phải dè sớm như vậy ổng muốn uống mấy ghe tàu cũng bán nhà mua cho ổng không tiếc tiền. Chị cũng tức mình là tại sao mấy năm trước nghe phong thanh ổng mèo mỡ chị đã làm quá mạng, cằn nhằn cưỡi nhưỡi, cắn xé. Phải dè...

Phải dè... Chị kêu tên chồng, cách thân mến rất ít khi sử dụng từ ngày có đứa con đầu tiên. Con Huê áy náy nắm cánh tay mẹ, chỗ con chuột, mà nó có cảm giác là đầy xương, dẫn ra cửa. Mắt ngập nước, nó cũng ngó ngoái lại lần chót ba nó, vẫn còn nằm trong một vị thế lạ lùng, một cẳng co vô bụng, một cẳng thẳng ra luôn cả bàn chưn, như người đương kiếm cách leo lên khỏi mương nước, hai bàn tay quắp cứng ngắc hai nắm bùn bây giờ đã khô, mấy chỗ tứ chi ló ra khỏi quần áo bao trùm một màu xanh xám đen đen lạnh lẽo khiến nó bắt rùng mình. 

Chị vợ ngó lại lần nữa thi thể người chồng, gật đầu chào chú Hai Một, rồi như len lén giở màn bước ra. Những giọt nước mắt được kềm giữ quá lâu thong thả bò trên gương mặt chị, nhểu xuống ngực áo khi chị bắt gặp những ánh mắt thân tình chia xẻ niềm đau xót của bà con lối xóm bây giờ tới đã tới ngồi đứng chật nhà.

Chú Hai Một nao nao theo dõi hai mẹ con lúp xúp đi trong tiếng thút thít, ánh mắt chú đậu lại trên cái lưng đầy sức sống và bộ hậu láng o của đứa con gái — được ôm bằng cái áo bà ba bó sát và cái quần vải đen dầy ủi thẳng thớm. Chú nheo mắt với mình và cười cười...

Ngoài kia chú nghe rõ tiếng chào của chị Sáu với bà vợ mình. Tiếng khóc của bà ta nín bặt ngang xương. Chú nghe loáng thoáng câu trả lời của vợ: '... Ừ... Kể từ trưa mai cho tới giờ hạ huyệt tôi sẽ ở đây... Ừ.. tiền bạc gì. Ðừng có lo chạy cho mất công. Bà con mình không, ai cũng nghèo chứ đâu có dư dả gì...

Nói nào ngay, tôi cũng đâu giàu có gì hơn với mớ đó'. Tiếng khóc lại nổi lên, bi thương thập bội hơn giọng tỉ tê nhè nhè của vợ người quá cố. Dòm qua chỗ hở do tấm màn bị vướng, chú Hai Một thấy vợ mình đầu bù tóc rối dụi dụi mắt khóc kể như chết cha chết mẹ. Bà ta nhảy từ nhân vật nầy qua nhân vật kia. Ban đầu là bà mẹ vợ. '...

Sáu ơi là Sáu ơi, nhà nầy một mình mầy lo từ trong ra ngoài. Vợ con mầy giờ đây làm sao đủ sức chống chỏi với đời. Ði đâu thấy món ngon vật lạ mầy cũng mua về cho tao, bây giờ mỗi khi thấy quán thấy hàng làm sao tao không khóc được, Sáu ơi là Sáu ơi.' Rồi tới vợ, tới con gái, mỗi người thím đều sáng tác giùm một bài văn tế bình dân nôm na như vậy, kể công đức người chết, vài phần thiệt, vài phần phóng đại những hành trạng mà nếu nghe được chắc người chết cũng phải hổ ngươi. 

Chỉ có một điều là giọng kể lể của thím lâm ly quá, nước mắt của thím sụt sùi quá khiến người nghe không còn đủ bình tĩnh tâm trí để phân biệt đâu thiệt đâu ngoa. Một cảm giác xấu hổ mà chú thường có khi vợ khóc đám người quen như kiểu thằng cha Sáu Say nầy len lỏi vô tim chú. Chú ngờ ngợ như vợ mình làm điều gì sái quấy, quá đáng, hơn sự phải có của điều bình thường, hơn sự bắt buộc của nghề nghiệp. 

Vừa lúc đó con Huê quay lại, đưa tay kéo cái chéo tấm vải màn xuống cho kín cửa buồng. Chú dòm lom lom bàn tay tròn trịa của con nhỏ cho tới khi ánh sáng trong phòng trở thành lù mù. Chú đốt điếu thuốc, dựa vách ngó xác chết, thong thả hít từng ngụm khói say sưa. Mỗi khi trong người có chuyện buồn vui lẫn lộn, những hơi đầu tiên của điếu thuốc vẫn là một thứ thần dược giúp chú tỉnh táo trở về thực tại với một tinh thần sáng suốt vô biên. 

Chú vạch màn dòm ra ngoài nhà trên như là tìm kiếm ai, ánh mắt chú đậu lại phía có con Huê đương đứng. Nghĩ sao không biết chú bước hẳn ra ngoài tới một bàn, cầm lấy chai rượu đế rót đầy một ly lớn, mỉm cười chào mấy người ngồi ở bàn đó rồi quày quả bước vô. Chú cẩn thận bỏ màn xuống, kéo mí lại như ngại ánh sáng bên ngoài có thể chui vô phòng. Tới bên xác chết, chú thiệt sự bắt tay vô công việc: phun phun, bóp bóp sửa nắn lại cho vào vị thế bình thường bộ tứ chi trước đây đã cứng đơ cứng còng. 

Chú cắt rách tay áo và ống quần của xác chết bằng cái kéo nhỏ, vật liệu độc nhứt chú mang theo mình như một thứ dụng cụ nghề nghiệp. Chẳng bao lâu cái công việc mà người vợ nạn nhân loay quay hàng giờ không thực hiện được đã được chú hoàn thành mỹ mãn. Anh Sáu Say bây giờ đã thiệt sự ngủ say trong một tư thế thoải mái, thanh thản.

Chú Hai Một bước lùi một bước, ngắm nghía công trình mình, chú mỉm cười hài lòng và tự thưởng bằng chút cặn rượu còn sót lại trong ly...

Tôi náo nức thiệt tình! Tôi sẽ gặp được cặp vợ chồng truyền nhân chánh của một nghề đang sắp biến mất trong một xã hội trên đà chuyển mình Âu hóa như cái thành phố Sài-gòn nầy. Ðường có xa, có lạ cũng chỉ là dịp để mở rộng nhãn quan thôi ... 

Chúng tôi đi qua cầu chữ U ở bến Thuyền Buồm (Quai des Jonques), một cái cầu tuy lót cây nhưng cao chưa từng thấy. Chiếc mô-bi-lết già chạy tới đâu đà cây lót cầu rung rinh nhúc nhích la hét ầm ầm tới đó, những chiếc bù lon sắt khổng lồ đưa lên như hàm răng con quái vật cầu sẵn sàng cắn vô vỏ bánh xe. Cây ván trơn chao đảo tay lái, tôi phải kềm thật vững.

Ðã hết đâu. Lại còn qua một cái cầu chữ U khác y hịt như vậy ở ngay trước chợ Bình Ðông. Sao vùng nầy lạ lùng vậy, cầu cao không tráng xi-măng hay trải nhựa, chỉ lót bằng cây mà lại lót xuôi theo đường xe cộ chạy?

Người dẫn đường như đoán được ý tôi, giải thích ba hoa. 'Vùng nầy không có thế để làm dốc nên cầu phải xây hình chữ U, cũng không thể xây bằng vật liệu nặng vì bờ kinh hẹp, đất hai bên lại mềm, không có chỗ đúc móng chưn cầu. Phải xây cao cho ghe chài qua lại bỏ lúa vô chành hay lấy lúa từ trong chành ra chở đi Lục tỉnh, lên Nam Vang ... Ngày trước ghe chài ra vô khúc kinh nầy liền liền, bây giờ có thêm kho chứa ở Bến Tàu nên ít đi đó chớ.

Tuy không biết rõ ràng danh từ ‘chành’ là gì nhưng tôi cũng mường tượng đoán được đó là một thứ kho chứa trữ nên mần thinh không hỏi như mọi khi. Cảnh tượng quê nhiều hơn tỉnh của vùng nầy trở thành một thứ loại ven biên đô thị mới ngó qua đã bắt mắt nên tôi cũng làm biếng nghe thêm. Cái thằng cha nầy có khả năng nói chuyện nầy qua chuyện kia lòng vòng ba bốn ngày không hết, đừng nên khươi cho nó nói không nhằm lúc.

'Gần tới chưa?' Tôi hỏi cũng là cách dẫn anh ta vô chuyện chánh. 'Sao chưa thấy cái đình anh nói?'

'Ði đò qua bên bờ kia. Ðó là làng Bình An, đình Bình An cách bến đò chừng một cây số ngàn,' hắn trả lời rành rọt. 'qua đò rồi lội một đỗi nữa thì tới nhà họ. Không xa đâu.'

Lại còn thêm chuyện đò! Ánh mặt trời chói chang trên đỉnh đầu. Coi bộ hơi trưa. Sài-gòn lẩm rẩm mà rộng thinh thang, đi nửa ngày từ trung tâm chưa ra tới ven biên.

Con đò ngang đưa khách qua bên đình do một cô gái trắng trẻo độ mười sáu mười bảy tuổi thong thả đẩy đưa mái chèo. Những nhịp đẩy-kéo căng lên căng xuống bộ ngực tròn mạnh thiếu nữ. Nàng thành thạo, không tỏ vẻ gì tốn sức tốn công. Tôi chợt nhớ tới chuyện thơ nàng Tiên Bửu xinh đẹp, thông minh chèo đò. Chỉ tiếc mình không có bộ râu dài phất phơ và tài đối đáp như ông Trượng.

Cảnh vật hai bên bờ kinh hiền hòa. Nhà cửa khang trang của một vùng quê trù phú. Mạ non xanh mởn. Sóng lụa rung rinh trên đầu lúa. Gió mát thơm mùi hạt lúa còn đương ngậm sữa. Vài căn nhà lá ẩn hiện sau những tàn cây mít, vú sữa xum xuê. 

Nét thanh bình có thể cảm thấy vương vương lãng đãng cùng khắp không khí. Trong khung cảnh như vậy mà gặp được một cái đám ma để quan sát luôn tài nghệ của vợ chồng Hai Một 'ra đám', 'khóc đám' thì còn gì thích thú bằng. Một công hai ba việc. Khỏi phải đi về chờ đợi lôi thôi.

Tôi mừng rỡ khi nghe tiếng kèn đám ma văng vẳng từ xa xa khuất đâu trong xóm. Trúng mối rồi. Mấy thuở trời chìu lòng người, cầu được ước thấy.

Vậy mà tôi không được chứng kiến gì hết những điều cần chứng kiến, mặc dầu kèn đám ma đương ò -e ngay tại nhà ông Hai Một. Tôi không gặp một ông 'nhưng quan' tài nghệ đặc biệt, điều khiển mọi chuyện liên quan đến động quan, di quan bằng nhạc của hai khúc tre. 

Tôi không gặp một người đàn bà bán nước mắt, khóc mướn trong mấy đám ma, ré lên từng hồi cắt dạ rồi xuống giọng tỉ tê bi thảm đau thương, kéo dài ngày nầy qua ngày khác từ lúc tẩn liệm cho tới khi hạ huyệt. Những hình ảnh lạ lùng tôi có trong trí vẽ ra do người dẫn đường khi giới thiệu về cặp kỳ nhân nầy không thấy đâu nữa. 

Còn lại chăng là một cặp vợ chồng già héo úa từ sâu thẳm trong lòng héo ra, một thứ cây chết rũ, một loại người bị chấn thương do Tây tà tra tấn bằng bàn tay sắt bọc vải, bầm nát ngũ phủ lục tạng tuy bên ngoài vẫn còn chút nào đó dáng vẻ bình thường.

Người đàn ông ngồi đó, mặt co rúm nhăn nheo của một thứ trái chín héo vì quá nắng, mắt ơ hờ ngó ra con đường đất đỏ bụi mù trước mặt, bất động tới cả từng thớ thịt mặt. Tôi biết chắc chắn cái hàng rào bông bụp đầy bông nở đỏ thắm ngoài kia, cái hàng rào đặc biệt được đóng cột bằng mấy cây so đũa trái lòng thòng và sợi dây kẽm giăng kế đó, nơi con gái ông phơi quần áo hằng ngày, không lọt vào trong giác trường của ông. Kể cả những người học trò đạo tỳ mặc quần áo đen viền trắng lăn xăn lít xít vì chuyện của thầy cũng vậy thôi, không có. 

Thời gian và hoạt cảnh trên cõi đời nầy hình như đối với ông không còn nữa. Dàn đờn trổi ò-e ngưng trổi không biết bao nhiêu chập, tôi để ý nhưng không thấy vợ chồng ông Hai Một nhúc nhích cục kịt gì, ngay cả khi một người đệ tử tới trước mặt ông cung kính xin phép cho mình được thay ông điều khiển cuộc 'di quan', ông cũng không trả lời hay hạ cái màn vô hồn trước ánh mắt mình xuống, mặc cho đám đệ tử và ông Hòa Thượng già điều khiển việc khiêng cái hàng ra khỏi khung cửa chật hẹp của căn nhà. 

Hai chung rượu để trên nắp hàng sóng sánh rồi tràn ra vài giọt do sự điều khiển không thành thạo của người đệ tử trẻ ông cũng không thấy, không biết. Hồn ông đương ở trong một cảnh giới ta-bà nào đó xa xăm, chỉ cái thân xác ngũ uẩn hiện diện mà thôi.

Ðám ma ra tới đầu ngõ, ông Hai Một mới choàng tỉnh khỏi cơn mộng du, đứng dậy bước chậm rãi theo vài ba người đi chót sau khi đã ngó bà vợ và lắc đầu trong tiếng thở dài. Người đàn bà ngồi trên cái ghế dựa, mắt vô hồn ngó tôi khi tôi tới kế bên nói mấy lời chia buồn cho phải phép. 

Không có một giọt nước mắt nào trên khóe mắt của người đàn bà suối lệ dễ tuông này. Không có cả một hít, khịt mũi nhỏ nhoi. Không có cả chuyện đỏ hoe hai mắt hay tiếng kể lể phân bua. Vậy đó. Một sự im lặng tuyệt đối của môi trường chân không. Vô lý tới khó tin.

Tôi ngó lại lần nữa tấm hình người quá cố. Cô gái có nụ cười thật buồn nhưng vẻ trẻ trung làm nao nao lòng người. Ðôi mắt sâu thăm thẳm của cô khiến ai nấy dòm qua một lần cũng phải ngó lại một lần nữa. Cái đẹp man dại và lôi cuốn. Cái đẹp của một cánh đồng đầy hoa thắm bên triền núi rộng cao. 

Có thể hình ảnh cô gái trẻ mới chết có sức mạnh tạo xúc động cho người sống—và một chút bằng lòng vì sự bất hạnh giáng xuống người khác chớ không phải mình—khiến phải ngó thêm. Tôi thấy trí mình coi bộ cải lương khi bỗng nhớ tới câu thơ có mấy chữ 'hồng nhan bạc mệnh.'

'Vợ chồng họ làm nghề thất đức nên bây giờ như vậy đó,' người dẫn đường kéo tôi về thực tế khi anh bấm tay tôi nói nhỏ. 'Cha tẩn liệm, di quan người khác lôi thôi, nên Trời khiến tới phiên con mình thì sững sờ muốn tự tay săn sóc cũng không làm được. Tụi học trò đạo tỳ nó làm đâu có đúng lễ. 

Hồn ma trước đây họ về trả thù đó. Biết bao nhiêu lần ổng bẻ tay bẻ chưn thiên hạ mạnh tay hay làm ẩu xị cho qua. Biết bao nhiêu lần ổng thay áo thay quần hay tẩn liệm dụt chạc, nhứt là người nghèo... Ðể rồi coi, hồn cô ta còn lẩn quất nhiều ngày trên trần thế chưa xuống dưới đó liền được đâu. Thiếu lễ đi đâu có xuôi chèo mát mái. Nhiều khi nó về nó phá nữa là khác.'

Không đồng ý với nhận xét nầy, nhưng tôi không cãi. Con người ta sinh ra vốn là mục tiêu cho những tấn kích cách nầy cách nọ của tất cả ai khác trên đời, huống gì chú Hai Một làm một nghề thiên hạ chỉ thấy sợ hãi và xa cách.

Không muốn khơi mào một cuộc đấu khẩu vô ích, tôi chỉ qua thím Hai Một, chưa kịp nói gì thì người dẫn đường đã lên tiếng, lần này pha một chút giọng thầy đời.

'Thói thường thương vay khóc mướn tới khi cần khóc cho mình thì hết nước mắt.'

Phải, điều gì xài quá thì mau hết, cái lý đó cũng đâu có gì là khó hiểu. Nói một cách trừu tượng, cái tình thương bà ta xài cho thiên hạ trong bao nhiêu năm trường 'khóc đám' khiến cho bà ta cạn tuyệt tình thương đối với con gái mình. Suối lệ cạn nguồn người ta thường nói vậy hoài.

Vâng, lý luận này có vẻ hữu lý nếu — và nếu, và nếu
— tình thương là một dạng của vật chất cụ thể. Con người ta thường tỏ ra mình thông thái, mình phải, mình hay như cái anh chàng nói nhiều nầy. Mấy ai biết được và thông cảm được với vợ chồng ông nhưng quan Hai Một. 

Tình thương con biển trời lai láng của họ khiến tất cả những biểu lộ bình thường khác đã trở thành vô nghĩa, không phù hợp. Với người sơ tôi đã khóc, và đã khóc mùi mẫn, với con gái cưng của tôi, tôi cũng khóc như vậy hay thôi sao? Tại sao tôi phải giống thiên hạ biểu lộ tình thương bằng nước mắt kia chứ? 

Có sự khác biệt giữa con gái tôi và người thiên hạ chứ? Nếu khóc đám làm xôm đám chớ không biểu lộ tình yêu thương chân thật thì cái gì mới diễn tả được lòng thương con của tôi đây. Con ơi, con nỡ bỏ cha mẹ già một mình ra đi sao con...

Tôi dòm lại dáng thất thểu của chú Hai Một sau đuôi đoàn người. Bước thấp bước cao, hụt hẫng như một hình nộm được điều khiển vụng về. Tôi ngó lại thím Hai Một, cũng dáng ngồi đó không biết bao lâu rồi, hai tay buông xuôi trên vế, bất động của một pho tượng đất sét, thểu não của một thứ người tuyết đương tan rã từ từ. Thím sẽ ngã xuống. Chắc chắn như vậy.

Tôi bỏ ra về, không dám ngó lại một tấm hình khác ở trên bàn thờ. Cuộc đời người con gái đó bình thường, cái chết cũng có thể rất bình thường nhưng một nhân duy-ên đặc biệt đã hé mở cho tôi một cánh cửa để nhận thấy rõ ràng về tấm lòng nhỏ nhen, ganh ghét của người đời nói chung và nỗi đau đớn khôn cùng của cặp vợ chồng già mất con trẻ nói riêng.

Trên đường về không khí bỗng nhiên nặng nề u ám ngang. Tôi ngậm câm cho tới lúc chia tay.

Tại sao? Tôi xúc động vì lòng thương con trời biển bao la đến nỗi mất hồn của cặp vợ chồng nhưng quan - khóc đám Hai Một. Mà cũng có lẽ là do tình cảm trân trọng đối với một cánh rừng đang chứa chấp một loài trân cầm dị điểu kỳ hoa hiếm hoi đang trên đà tuyệt chủng. 

Sau nầy lắm lúc ngồi ôm súng ở một vùng đồi núi cao nguyên, đêm về bốn bề tĩnh mịch, giữa cảnh trùng trùng của bóng tối bao la, trí nhớ bình bồng trôi về quá khứ, tôi ngạc nhiên thấy kỷ niệm của mình về Sàigòn không chỉ nằm trong chỗ những sinh hoạt ồn ào tục tằn ở các khu ổ bùn lầy nước đọng từng sống một thời gian dài lúc trẻ, và những nơi có kiến trúc nguy nga tráng lệ có dịp đặt chơn tới sau nầy khi đã thành nhơn, mà còn nằm ở cảnh trí đơn giản của một buổi sáng ven đô nơi ít người biết tới là làng Bình An bên kinh Ruột Ngựa, chỗ căn nhà có hàng rào bông bụp, xen kẽ bằng hàng cây so đũa lòng thòng trái...

Không ai chịu mất thì giờ đào sâu vào chốn tận cùng tâm hồn mình để tìm hiểu những yếu tố cụ thể nào khiến mình yêu đậm đà quê hương xứ sở, thân mến tuyệt cùng với nơi mình lớn lên trong buổi đầu đời.

Mà cần gì tìm hiểu nguyên nhân?

Sàigòn cũng vậy, đối với tôi thân thiết, đáng nhớ, xa trong thực thức nhưng tiềm thức không bao giờ xa. Bao nhiêu đó đã là quá đủ. Một vài chi tiết cụ thể về nơi nầy nơi nọ, người nầy người kia, nói cho cùng, cũng chỉ như một nhúm sao nhỏ nhoi trong vũ trụ bao la của triệu triệu dãy Ngân Hà.

Xem thêm:
Đọc thêm..