Gần nửa đời người lăn lóc đó đây trên nhiều khu khác biệt của đất Sài-gòn vậy mà tôi chỉ thấy được hai mặt, hoặc tráng lệ nguy nga đè bẹp con người dưới gông cùm kim tiền vật chất, hoặc bùn lầy nước đọng chết đuối con người bằng những thứ tầm thường nhỏ mọn như miếng ăn chỗ ở. 

Không có bộ mặt nào khác hơn. Sài-gòn đối với tôi, như vậy trên bản chất giống bất cứ một thành phố nào trên thế giới, không thể tìm thấy tánh cách thuần túy Việt Nam. Tôi một thời lơ là với Sài -gòn cũng vì lẽ đó. 

Thế nhưng có ai chơi cắc cớ hỏi tính chất Việt của một thành phố là cái gì, nằm trong địa hạt nào của muôn ngàn dáng vẻ biểu hiện từ văn minh đến văn hóa, chắc thế nào tôi cũng ậm ừ cho qua bởi không thể nào vẽ lên, tả được những nét tận tường. 

Ổ chuột và những căn nhà chông chênh trên mặt sông bùn lầy đen đúa thì hiện diện ở bất cứ thành phố nào của xã hội nghèo nàn, nhất là vùng Ðông Nam Á. Xã hội tân tiến Tây phương ít xóm nghèo, ít hang cùng ngõ hẻm hơn, ít nhưng không phải là không. Nhà lầu cao với những kiến trúc tân kỳ càng ngạo nghễ, đẹp mắt càng không thể tượng trưng cho Việt chất. 

Chộp nắm được phần nào dễ thương, là lạ trong kiến trúc, trong lối ăn nếp ở, trong cách xử thế tiếp vật, trong một nghề nghiệp đặc biệt, tôi, lòng lúc đó đương lạnh tanh, nôn nao sung sướng như hồi nhỏ được về quê thấy lại cái lò gạch cũ, nghe được mùi thơm từ khu vườn mía Tây của người láng giềng, ngó mãn nhãn những miếng ruộng lớn đại nối tiếp nhau chạy tới mút chân trời, hay thấy con sông hiền hòa thỉnh thoảng có vài chiếc ghe lồng trôi chầm chậm...

Ðiều dễ thương đối với tôi cũng bình thường thôi. Thường là những căn nhà ở vùng Bà Chiểu, Thủ Ðức, ba gian hai chái, vách bổ kho, mái ngói âm dương, cột danh mộc tròn lên nước bóng lưỡng dựng chững chạc trên từng tảng đá xanh vuông vức, trong nhà đối liễn vẫn còn treo trên những vị trí trang trọng. 

Hay một cái bàn 'ông thiên' giữa trời thường thấy ở vùng Giồng Ông Tố với hình ảnh người chủ gia đình, lúc vừa chụp tối, bận áo bà ba hai tay chấp nắm nhang xá xá bốn phương trời. Hoặc một cái gáo dừa gắn cán dài úp trên lu nước dựng ngoài mái hiên bắt gặp thường xuyên từ khoảng Cầu Hàn đổ ra đến nửa đường đi Nhà Bè hay từ phía Phú Lâm đổ lên Gò Ðen. 

Có những hình ảnh nhỏ hơn và tầm thường hơn như tiếng võng đưa kẽo-kẹt vào lúc giữa trưa trời đứng gió. Võng phải treo phía trên một cái giường tre khập khễnh mới đúng điệu, hòa hợp vời cảnh trí xa xa là một bụi tre mà ngọn và tất cả lá đều đương đứng im lìm trầm ngâm ngó trời như thường thấy ở xóm Cầu Tre trước đây thì càng tốt.

Nhưng tôi chưa đủ thời giờ để nhìn cho thỏa mắt, chưa đủ lớn để chíp vô ký ức cất làm kỷ niệm riêng cho đời mình thì các cảnh trí trên phần nhiều đã bị sóng thời gian tàn nhẫn phủ lấp chìm hay bóp cho biến dạng theo sự đổi thay tất nhiên của xã hội. Chúng mất hút đi mau chóng, tới khi tôi kịp rãnh rỗi ngó lại thì còn chẳng thấy được bao nhiêu.

À, hình như là Sài- gòn phát triển theo tốc độ phi mã của thời đại tân tiến nên tiêu diệt mất những vết tích nhà quê nghèo nàn nhưng dễ thương của một sinh hoạt tiền đô thị mà trước đây tôi tưởng lầm là nét chấm phá nào đó của Việt tính. Nhưng không sao, tôi biết được bịnh mình. 

Mình thèm, mình thiếu trong máu huyết một mảnh trời quê và đương đòi Sài-gòn cung cấp cho một chút quê mùa đó. Ðô thị vây hãm tầm mắt bằng nhà cao, hãng xưởng và xe bụi, Sài-gòn giới hạn tâm hồn người bằng chuyện thành phố lẩm cẩm tình-tiền-thù không có gì đặc trưng, tôi cảm thấy thiếu một khung trời khoáng đãng, thèm một chút hoàn cảnh thuận tiện để buông thả tâm hồn, tôi thiếu tình người ở trạng thái sơ tâm...


Phật pháp ứng dụng Biển trời lai láng

Trong tâm thái hoài cổ nao nao của nỗi thèm khát đó tôi được nghe chuyện hai vợ chồng chú Hai Một nhưng quan, khóc đám.

Như bao nhiêu lần trước, Chú Hai Một khi vô tới hàng ba, dợm cẳng bước lên ngạch cửa, thì quay về phía sau rầy dức vợ sao chậm lục còn hơn bà già đi âm phủ rồi xăn xáy bước ào vô nhà như con trốt, bỏ mặc kệ thím Hai còn đủng đỉnh đánh-đồng-xa đâu đó mút tí tè ngoài đầu ngõ.

Nhiều người ngưng chuyện trò len lén ngước lên quan sát người khách mới, cách quan sát có chút tò mò đó, nhưng e dè, xa cách. Nhiều người, cử chỉ bỗng nhiên chậm rãi hơn như đương bận dồn hết giác quan để bí mật theo dõi chuyện gì đó xảy ra chung quanh. Có người còn liếc liếc rồi lại giả bộ cúi xuống hớp ly nước dở dang nãy giờ để lơ là trước mặt. 

Không một câu hỏi nào được nói lên thành lời, chỉ có những câu hỏi thầm ngầm chứa trong thái độ và cử chỉ. Chú Hai Một tuy vậy cũng đã biết mình phải nói gì nên lên tiếng trước, chú nói trống không nhưng thật ra là nói với toàn thể những người đương có mặt.

'Ðược rồi, để đó tôi lo liệu cho. Bà con mình không chớ ai vô đây,' chú hỏi tiếp theo sau khi dòm sơ qua một vòng từ những người ngồi ở cái bàn gần cửa tới một số người trai trẻ ngồi bỏ chưn thòng xuống đất trên bộ ngựa rồi tới những người hơi lạ lạ ngồi tuốt trong gần chỗ cái màn cửa ngăn với nhà trong. 'Mà hồi nào vậy? Hôm kia hôm kìa gì đây tôi còn thấy ảnh đi băng-xiên băng-nai, té lên té xuống trước nhà tôi, quần ống cao ống thấp, lè nhè, con nít chạy theo coi rùm trời. Gì mà mau vậy?' 

Ba bốn tiếng giọng thanh niên, mau mắn tranh nhau nói với khách. 'Chị Sáu thấy xác ảnh nằm vắt vẻo nửa trên nửa dưới ở cái mương cá đằng nhà thằng cha Ba Khìa hồi tưng bửng sáng....' 

'Chắc đâu hồi khuya....' 'Trúng gió, té nước... ' Tiếng xì xào bàn góp thêm chi tiết như một thứ bịnh truyền nhiễm chuyền từ nhóm nầy sang nhóm kia, phá tan bầu không khí lạnh nhạt e dè từ khi chú Hai Một bước vô. Một tay tổ nào đó, ý chừng là bạn nhậu thân tình với nạn nhân, chêm vô một câu diễu vô duyên ớn. 'Chắc đâu cũng đốn hết mấy lít rồi nên nóng nảy trong mình, về khuya gặp nước, tắm mát rồi khoái chí tử nằm ì ra đó không chịu lên.'

Những cặp mắt bây giờ đổ dồn về phía tay anh chị ăn nói bạt mạng đó. Trách móc, khinh thị, bất bình. Biết mình nói hớ, anh ta cười cầu tài, sửa. 'Ậy… mà sinh ký tử quy. Chết trẻ khoẻ ma, chết già lụm khụm. Anh Sáu thọ như vậy là được rồi, năm mốt bước qua năm ba bước lợi đâu có bao nhiêu người qua khỏi cái cầu nầy. Ậy… mà đời bây giờ còn sống là còn khổ. Chính tôi đây nè, nhiều khi khổ quá mạng, cầu trời chết cho rảnh nợ mà không được.'

'Con vợ thằng Sáu nóng ruột chồng đi cả đêm không về nên trời vừa hừng hừng sáng là lo xách đèn đi kiếm, ai dè sự thể như vầy...' một tiếng đàn bà nhỏ nhẹ, nói với mọi người mà như nói với mình. 'Í hị!' Tiếng thở dài thương hại thay cho cái chấm câu.

Chú Hai Một quay qua cúi đầu chào người đàn bà, bà vừa nói tiếp vừa gật đầu chào lại, giọng nho nhỏ pha một chút mủi lòng.

'Tội nghiệp, cái thằng say sưa vậy mà cũng biết lo tưởng tới vợ con, trên bờ mương còn hai xâu thịt heo quay với một mớ bánh bò trắng nằm lăn lóc. Tao tiếc quá lượm đem về bỏ trong gạt-măng- giê... Cái số con vợ nó không được ăn heo quay, chồng đem về chưa tới ngõ đã lăn đùng ra theo ông theo  bà.'

'Tuần rồi ảnh với tôi còn leo lên nóc nhà lợp lại cái mái lá dột phía trước hết một buổi trời,' người đàn ông hồi nãy cũng cái mửng cũ vừa nói vừa khoe. 'Thiệt anh Sáu khỏe còn hơn tiên, hồi nào tới giờ ở nhà quê mà sống theo kiểu dân cậu, đâu cần động tới móng tay....' Anh ta đổi giọng vui vui. 'Chắc biết mình sắp đi nên bữa đó mới chịu khó trả nghĩa vợ lần chót.'

Nhiều tiếng cười tán thưởng ở phía đám thanh niên hòa chung với vài cái hứ bất bình từ đám đàn bà.

Chú Hai Một bây giờ mới quay về phía người đàn ông nọ. Chú biết là ai nhưng cũng không thèm để ý tới chuyện chào hỏi, cũng không thèm cười góp mà chỉ hất hàm một cách trống không về phía buồng.

'Ờ, ở trong đó đó,' Bà già vừa nói hồi nãy hiểu ý trả lời hớt mọi người. 'Tội nghiệp, sớm tới giờ hai mẹ con nó xà quần trong đó. Bây giờ chắc là đương lo thay quần áo cho ‘thẳng’. Bùn đất không... Hồi mới đem về.... ướt mèm ướt mẹp nên tụi nó xót ruột. Nhà không có đàn ông con trai để lo mấy chuyện đó nên tụi nó phải làm. Ðâu thằng Hai mầy vô coi coi, liệu giúp đỡ gì được mẹ con nó thì giúp.'

Thím Hai Một tới bây giờ mới vô tới hàng ba. Khác với chồng, thím thủng thẳng bước nhích nhích từng bước một, đầu cúi xuống, hai đầu khăn rằn hết đầu nầy đưa lên chùi nước mắt tới đầu kia đưa lên chùi nước miếng nước mũi. Người trong nhà chưa ai thấy mặt mày thím nhưng tiếng khóc xụt xùi hòa với tiếng hít khịt mũi đã nghe rõ ràng, nức nở đứt ruột đứt gan, lâm li như tiếng khóc dễ mủi lòng của bà con ruột thịt khi mất người thân thương.

Không mấy ai ngạc nhiên trước cảnh nầy. Chuyện thím khéo dư nước mắt khóc người 'thân sơ' dân làng Bình An đâu ai lạ lùng gì. Nghề nghiệp. Nghề nghiệp ít người theo như vợ chồng thím. Hai ông bà đã từ bao lâu nay trở thành một cặp bài trùng không thể thiếu trong mấy đám ma chẳng những quanh quẩn trong mấy cái cù lao giữa kinh Ruột Ngựa và kinh Tàu Hủ mà nhiều khi còn có người rước lên tới Chợ Ðệm, Bình Ðiền, Gò Ðen nữa. 

Một vài người khách ngạc nhiên quan sát, sao trên đời lại có người lạ lùng như vậy cà, mau nước mắt đã đành lại còn không biết mắc cỡ khi làm chuyện trên đời chỉ có một mình mình. Thím Hai Một khóc ngọt ngào, bất tận. Nước mắt như mưa tuôn trào đầy mặt. Não can tràng hơn tiếng than của đào thương trong gánh hát. Khóc đã đời thím cất giọng kể lể. 'Sáu ơi là Sáu, chú bỏ vợ yếu con thơ chú vội vàng đi đâu. 

Bao nhiêu người thương chú trên đời sao không ở lại. Âm phủ dương gian hai đàng cách trở, từ nay vợ con chú biết trông cậy vô ai? Sáu ơi là Sáu ơi. Ngày trước chú giúp người cô quả, chú thân thiện xóm làng, đầu trên chợ dưới, người dưng họ hàng, ai có chuyện gì chú không nề hà giúp đỡ. Sao người như chú mà trời bắt đi cho nỡ, còn những kẻ lỗi đạo vô nghì lại sống chật trời chật đất, tốn gạo tốn cơm...
Sáu ơi là Sáu ơi.'

Chú Hai Một quay mặt ra cửa, ngó mau về phía vợ, nhăn mày tỏ ý không bằng lòng—quá lố rồi đó, quá trong nước mắt thì còn chấp nhận được, quá trong lời than thì chạm tới biết bao nhiêu người, ăn của chủ nhà bao nhiêu mà đưa lưng mang tiếng oán. Tuy nghĩ bụng như vậy nhưng chú không nói gì, chỉ vén màn bước thẳng vô phòng trong.

Bóng tối âm u của ngọn đèn dầu phọng tim se bằng một miếng vải trắng bỏ trong cái dĩa dầu để dưới gầm giường và cây đèn cầy nhỏ đặt phía dưới chưn người chết chập chờn leo lét, không giúp cho đôi mắt quen với ánh sáng của chú Hai thấy gì hơn là một cụm tối dầy đặc, khổng lồ. 

Chú đứng định thần một hồi hèn lâu mới quen mắt lần. Con nhỏ Huê đương quay lưng về phía chú, mặt quay vô vách, đương giơ cao lên xăm xoi một cách dềnh dàng bộ đồ bà ba hàng màu hột gà của ba nó đâu như là mới vừa được lấy từ trong tủ ra, còn đầy những lằn xếp. Chị Sáu đương rờ rờ nắn nắn hai cánh tay co rút của người chết mà mấy ngón tay cong lại như đương thủ thế để cào cấu ai. Gương mặt chị thểu não pha lẫn nét chán chường. 

Chị biết bổn phận mình phải làm gì nhưng không biết bắt đầu từ đâu và bằng cách nào. Trong lòng chị đương có một sự tương tranh dữ dội giữa hai mặt sợ-thương. Thấy ánh sáng và đã đoán được ai bước vô, chị ngước mắt lên chờ đợi một mệnh lịnh, mệnh lịnh dưới hình thức đề nghị thiệt bình thường nhưng giúp chị ra khỏi cảnh bối rối hiện tại không biết mình phải làm gì mới đúng cách và trọn đạo.

'Chị Sáu với con Huê 'quá bộ' ra ngoài nhà tiếp khách đi,' chú Hai Một nói như ra lịnh, nói lựa chữ văn hoa một cách ăn trét. 'Bà con lối xóm nghe tin hồi nào không biết mà đã kéo tới chia buồn coi bộ hơi bộn rồi đó. Ðầy nhà! Mà tôi thấy có ai ở ngoài đó lo trầu cau nước nôi gì cho khách đâu,' Chú ngừng một chút ngó vô con Huê bây giờ mới day mặt lại phía ánh sáng. 'Với lại ba cái chuyện nầy nên để tôi. Nghề nghiệp ai người nấy làm. Chuyện nầy đâu phải ai cũng mó tay mó chưn vô được.' 

Một lần nữa chú ngó về phía con Huê. 'Ðàn bà con gái gần hơi người mới đi không nên đâu. Ðộc lắm. Về sau bị bịnh hậu khó lòng.' Mặt con Huê, nãy giờ nước mắt đã lăn rơi, buồn lâm ly, đổi sắc liền, mừng thấy rõ, nó bỏ bộ quần áo xuống rồi đi vòng về phía đầu giường của ba nó, sẵn sàng bước ra. 

Chị Sáu trái lại chỉ hơi khựng lại một chút khi nghe nhắc tới mấy tiếng không nên nhưng rồi cũng tiếp tục cố gắng tuột tay áo của chồng ra. Cái áo đã được mở nút cẩn thận, phơi màu da ngực xám ngắt của xác chết dưới ánh đèn. Cánh tay cứng đơ, cà huynh cà hoang, tay áo dính một lớp bùn mỏng thêm phần trở ngại. Chị bậm môi hè hụi giựt mạnh nhưng cũng không ích lợi gì, chỉ làm rớt lộp độp lớp bùn khô xuống giường như bánh tráng nướng bể. Bộ mặt người chết nhăn nhăn với cặp môi đã bắt đầu rút, lòi răng ra cười ngạo cảnh tượng. 

Cánh tay thây ma cứng cong, trì lại phản đối không cho thay bộ quần áo cuối cùng trong đời mình. Chú đánh thêm một đòn tâm lý trong khi thong thả cho tay vô túi trong lục kiến gói thuốc Job đỏ lận theo từ đằng nhà.

'Chết bất đắc kỳ tử linh lắm. Ngày giờ trùng thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Tránh trước thì hơn. Trùng tang liên táng xui mấy đời chớ không ít đâu. Chị với con Huê làm ơn dang ra cho tôi.'

Chú ngừng nói, đứng yên, điếu thuốc đã an vị trên môi, tay mặt cầm sẵn diêm quẹt nhưng chưa quẹt lửa, cố ý đợi hai người phụ nữ bước ra. Thân nhân nào cũng sẽ khó chịu khi thấy xác của người thân bị kéo nắn mạnh tay, mười người như một, ai cũng năn nỉ nầy nọ, xin xỏ vầy khác. Khó lòng. Chú thấy công việc mình làm phải mang tính cách thiêng liêng, bí mật, càng ít người biết mình làm gì với cái xác chết càng tốt. 

Chú đưa tay rờ rờ cái mặt lạnh tanh của thây ma, rồi bằng một cử chỉ thiệt nghề nghiệp chú đưa hai ngón tay cái-trỏ ra kéo kéo hai môi người chết lại cho khít khao hơn như ngầm nói tôi đã sẵn sàng rồi, mời bà con nhường chỗ cho tôi. Tay chú đụng vô chỗ lạnh hơn mình tưởng, chú chửi thầm trong bụng cái thằng nhậu nhẹt chết bờ chết buội, ngâm nước cả đêm để cho cái mặt lạnh còn hơn đá cẩm thạch ướp nước đá. 

Chú đưa mắt ngó con Huê rồi đão qua má nó. Thường thường mời thân nhân của người quá cố ra khỏi buồng chú chỉ cần xài tới mấy tiếng ‘không nên’ đã là quá đủ, họa hoằn lắm mới phải xài tới mấy điều dọa dẫm về chuyện bệnh hậu, trùng tang liên táng mà chú học lóm, khi đi đám đó đây, từ mấy bô lão biết chút ít bói toán thuốc men.

Người đàn bà bỏ cánh tay chồng xuống với một tiếng thở thiệt dài như là bà nín hơi từ lâu lắm bây giờ mới được phép thở. Cách bỏ xuống cũng nhẹ nhàng, ẩn chứa trong đó cả một trời thương yêu. Nhè nhẹ, chầm chậm bước lần về phía cữa. Khoảng cách chỉ vài bước mà như xa thăm thẳm, vừa bước đi vừa ngó ngoái lại như không muốn mất những phút giây chót với chồng. 

Ra khỏi đây rồi, lúc trở vô người chồng đầu ấp tay gối — người mới hôm qua còn gây gổ với chị — một sự gây gổ nhẹ nhàng càm ràm, quen thuộc trong bao nhiêu năm trời, khiến chị cảm thấy mình hiện diện và là một thứ gì khác với những đồ vật vô tri trong nhà

— bấy giờ sẽ thật sự trở thành một cái xác chết đúng nghĩa, hoàn toàn là một cái thây ma lạnh lẽo chờ tới giờ để được bỏ vô hòm đem chôn. Hư vô, mất tuyệt từ đấy. Xa cách đời đời, thật sự, tuyệt đối từ đây. Một xa cách mặc dầu không hình dung được, mới chỉ lấp ló trước mặt đã cắt đứt ruột gan, khiến chị chưa gì đã thấy mình bơ vơ, nhỏ nhoi lạc lõng hơn. 

Chị bật khóc thành tiếng, nấc nghẹn, mặc dầu đã cố dằn xuống ngay từ hồi thấy xác chồng nằm úp mặt nửa trên nửa dưới ở bờ mương — sợ nước mắt nhểu xuống mặt ổng ổng khó đi đầu thai. Chị bỗng nhiên thấy tức mình tại sao bữa hổm ổng đòi uống thêm xị nữa chị tiếc tiền và sợ ổng bịnh không cho con đi mua lại còn biểu nó dấu cái chai đi. 

Phải dè sớm như vậy ổng muốn uống mấy ghe tàu cũng bán nhà mua cho ổng không tiếc tiền. Chị cũng tức mình là tại sao mấy năm trước nghe phong thanh ổng mèo mỡ chị đã làm quá mạng, cằn nhằn cưỡi nhưỡi, cắn xé. Phải dè...

Phải dè... Chị kêu tên chồng, cách thân mến rất ít khi sử dụng từ ngày có đứa con đầu tiên. Con Huê áy náy nắm cánh tay mẹ, chỗ con chuột, mà nó có cảm giác là đầy xương, dẫn ra cửa. Mắt ngập nước, nó cũng ngó ngoái lại lần chót ba nó, vẫn còn nằm trong một vị thế lạ lùng, một cẳng co vô bụng, một cẳng thẳng ra luôn cả bàn chưn, như người đương kiếm cách leo lên khỏi mương nước, hai bàn tay quắp cứng ngắc hai nắm bùn bây giờ đã khô, mấy chỗ tứ chi ló ra khỏi quần áo bao trùm một màu xanh xám đen đen lạnh lẽo khiến nó bắt rùng mình. 

Chị vợ ngó lại lần nữa thi thể người chồng, gật đầu chào chú Hai Một, rồi như len lén giở màn bước ra. Những giọt nước mắt được kềm giữ quá lâu thong thả bò trên gương mặt chị, nhểu xuống ngực áo khi chị bắt gặp những ánh mắt thân tình chia xẻ niềm đau xót của bà con lối xóm bây giờ tới đã tới ngồi đứng chật nhà.

Chú Hai Một nao nao theo dõi hai mẹ con lúp xúp đi trong tiếng thút thít, ánh mắt chú đậu lại trên cái lưng đầy sức sống và bộ hậu láng o của đứa con gái — được ôm bằng cái áo bà ba bó sát và cái quần vải đen dầy ủi thẳng thớm. Chú nheo mắt với mình và cười cười...

Ngoài kia chú nghe rõ tiếng chào của chị Sáu với bà vợ mình. Tiếng khóc của bà ta nín bặt ngang xương. Chú nghe loáng thoáng câu trả lời của vợ: '... Ừ... Kể từ trưa mai cho tới giờ hạ huyệt tôi sẽ ở đây... Ừ.. tiền bạc gì. Ðừng có lo chạy cho mất công. Bà con mình không, ai cũng nghèo chứ đâu có dư dả gì...

Nói nào ngay, tôi cũng đâu giàu có gì hơn với mớ đó'. Tiếng khóc lại nổi lên, bi thương thập bội hơn giọng tỉ tê nhè nhè của vợ người quá cố. Dòm qua chỗ hở do tấm màn bị vướng, chú Hai Một thấy vợ mình đầu bù tóc rối dụi dụi mắt khóc kể như chết cha chết mẹ. Bà ta nhảy từ nhân vật nầy qua nhân vật kia. Ban đầu là bà mẹ vợ. '...

Sáu ơi là Sáu ơi, nhà nầy một mình mầy lo từ trong ra ngoài. Vợ con mầy giờ đây làm sao đủ sức chống chỏi với đời. Ði đâu thấy món ngon vật lạ mầy cũng mua về cho tao, bây giờ mỗi khi thấy quán thấy hàng làm sao tao không khóc được, Sáu ơi là Sáu ơi.' Rồi tới vợ, tới con gái, mỗi người thím đều sáng tác giùm một bài văn tế bình dân nôm na như vậy, kể công đức người chết, vài phần thiệt, vài phần phóng đại những hành trạng mà nếu nghe được chắc người chết cũng phải hổ ngươi. 

Chỉ có một điều là giọng kể lể của thím lâm ly quá, nước mắt của thím sụt sùi quá khiến người nghe không còn đủ bình tĩnh tâm trí để phân biệt đâu thiệt đâu ngoa. Một cảm giác xấu hổ mà chú thường có khi vợ khóc đám người quen như kiểu thằng cha Sáu Say nầy len lỏi vô tim chú. Chú ngờ ngợ như vợ mình làm điều gì sái quấy, quá đáng, hơn sự phải có của điều bình thường, hơn sự bắt buộc của nghề nghiệp. 

Vừa lúc đó con Huê quay lại, đưa tay kéo cái chéo tấm vải màn xuống cho kín cửa buồng. Chú dòm lom lom bàn tay tròn trịa của con nhỏ cho tới khi ánh sáng trong phòng trở thành lù mù. Chú đốt điếu thuốc, dựa vách ngó xác chết, thong thả hít từng ngụm khói say sưa. Mỗi khi trong người có chuyện buồn vui lẫn lộn, những hơi đầu tiên của điếu thuốc vẫn là một thứ thần dược giúp chú tỉnh táo trở về thực tại với một tinh thần sáng suốt vô biên. 

Chú vạch màn dòm ra ngoài nhà trên như là tìm kiếm ai, ánh mắt chú đậu lại phía có con Huê đương đứng. Nghĩ sao không biết chú bước hẳn ra ngoài tới một bàn, cầm lấy chai rượu đế rót đầy một ly lớn, mỉm cười chào mấy người ngồi ở bàn đó rồi quày quả bước vô. Chú cẩn thận bỏ màn xuống, kéo mí lại như ngại ánh sáng bên ngoài có thể chui vô phòng. Tới bên xác chết, chú thiệt sự bắt tay vô công việc: phun phun, bóp bóp sửa nắn lại cho vào vị thế bình thường bộ tứ chi trước đây đã cứng đơ cứng còng. 

Chú cắt rách tay áo và ống quần của xác chết bằng cái kéo nhỏ, vật liệu độc nhứt chú mang theo mình như một thứ dụng cụ nghề nghiệp. Chẳng bao lâu cái công việc mà người vợ nạn nhân loay quay hàng giờ không thực hiện được đã được chú hoàn thành mỹ mãn. Anh Sáu Say bây giờ đã thiệt sự ngủ say trong một tư thế thoải mái, thanh thản.

Chú Hai Một bước lùi một bước, ngắm nghía công trình mình, chú mỉm cười hài lòng và tự thưởng bằng chút cặn rượu còn sót lại trong ly...

Tôi náo nức thiệt tình! Tôi sẽ gặp được cặp vợ chồng truyền nhân chánh của một nghề đang sắp biến mất trong một xã hội trên đà chuyển mình Âu hóa như cái thành phố Sài-gòn nầy. Ðường có xa, có lạ cũng chỉ là dịp để mở rộng nhãn quan thôi ... 

Chúng tôi đi qua cầu chữ U ở bến Thuyền Buồm (Quai des Jonques), một cái cầu tuy lót cây nhưng cao chưa từng thấy. Chiếc mô-bi-lết già chạy tới đâu đà cây lót cầu rung rinh nhúc nhích la hét ầm ầm tới đó, những chiếc bù lon sắt khổng lồ đưa lên như hàm răng con quái vật cầu sẵn sàng cắn vô vỏ bánh xe. Cây ván trơn chao đảo tay lái, tôi phải kềm thật vững.

Ðã hết đâu. Lại còn qua một cái cầu chữ U khác y hịt như vậy ở ngay trước chợ Bình Ðông. Sao vùng nầy lạ lùng vậy, cầu cao không tráng xi-măng hay trải nhựa, chỉ lót bằng cây mà lại lót xuôi theo đường xe cộ chạy?

Người dẫn đường như đoán được ý tôi, giải thích ba hoa. 'Vùng nầy không có thế để làm dốc nên cầu phải xây hình chữ U, cũng không thể xây bằng vật liệu nặng vì bờ kinh hẹp, đất hai bên lại mềm, không có chỗ đúc móng chưn cầu. Phải xây cao cho ghe chài qua lại bỏ lúa vô chành hay lấy lúa từ trong chành ra chở đi Lục tỉnh, lên Nam Vang ... Ngày trước ghe chài ra vô khúc kinh nầy liền liền, bây giờ có thêm kho chứa ở Bến Tàu nên ít đi đó chớ.

Tuy không biết rõ ràng danh từ ‘chành’ là gì nhưng tôi cũng mường tượng đoán được đó là một thứ kho chứa trữ nên mần thinh không hỏi như mọi khi. Cảnh tượng quê nhiều hơn tỉnh của vùng nầy trở thành một thứ loại ven biên đô thị mới ngó qua đã bắt mắt nên tôi cũng làm biếng nghe thêm. Cái thằng cha nầy có khả năng nói chuyện nầy qua chuyện kia lòng vòng ba bốn ngày không hết, đừng nên khươi cho nó nói không nhằm lúc.

'Gần tới chưa?' Tôi hỏi cũng là cách dẫn anh ta vô chuyện chánh. 'Sao chưa thấy cái đình anh nói?'

'Ði đò qua bên bờ kia. Ðó là làng Bình An, đình Bình An cách bến đò chừng một cây số ngàn,' hắn trả lời rành rọt. 'qua đò rồi lội một đỗi nữa thì tới nhà họ. Không xa đâu.'

Lại còn thêm chuyện đò! Ánh mặt trời chói chang trên đỉnh đầu. Coi bộ hơi trưa. Sài-gòn lẩm rẩm mà rộng thinh thang, đi nửa ngày từ trung tâm chưa ra tới ven biên.

Con đò ngang đưa khách qua bên đình do một cô gái trắng trẻo độ mười sáu mười bảy tuổi thong thả đẩy đưa mái chèo. Những nhịp đẩy-kéo căng lên căng xuống bộ ngực tròn mạnh thiếu nữ. Nàng thành thạo, không tỏ vẻ gì tốn sức tốn công. Tôi chợt nhớ tới chuyện thơ nàng Tiên Bửu xinh đẹp, thông minh chèo đò. Chỉ tiếc mình không có bộ râu dài phất phơ và tài đối đáp như ông Trượng.

Cảnh vật hai bên bờ kinh hiền hòa. Nhà cửa khang trang của một vùng quê trù phú. Mạ non xanh mởn. Sóng lụa rung rinh trên đầu lúa. Gió mát thơm mùi hạt lúa còn đương ngậm sữa. Vài căn nhà lá ẩn hiện sau những tàn cây mít, vú sữa xum xuê. 

Nét thanh bình có thể cảm thấy vương vương lãng đãng cùng khắp không khí. Trong khung cảnh như vậy mà gặp được một cái đám ma để quan sát luôn tài nghệ của vợ chồng Hai Một 'ra đám', 'khóc đám' thì còn gì thích thú bằng. Một công hai ba việc. Khỏi phải đi về chờ đợi lôi thôi.

Tôi mừng rỡ khi nghe tiếng kèn đám ma văng vẳng từ xa xa khuất đâu trong xóm. Trúng mối rồi. Mấy thuở trời chìu lòng người, cầu được ước thấy.

Vậy mà tôi không được chứng kiến gì hết những điều cần chứng kiến, mặc dầu kèn đám ma đương ò -e ngay tại nhà ông Hai Một. Tôi không gặp một ông 'nhưng quan' tài nghệ đặc biệt, điều khiển mọi chuyện liên quan đến động quan, di quan bằng nhạc của hai khúc tre. 

Tôi không gặp một người đàn bà bán nước mắt, khóc mướn trong mấy đám ma, ré lên từng hồi cắt dạ rồi xuống giọng tỉ tê bi thảm đau thương, kéo dài ngày nầy qua ngày khác từ lúc tẩn liệm cho tới khi hạ huyệt. Những hình ảnh lạ lùng tôi có trong trí vẽ ra do người dẫn đường khi giới thiệu về cặp kỳ nhân nầy không thấy đâu nữa. 

Còn lại chăng là một cặp vợ chồng già héo úa từ sâu thẳm trong lòng héo ra, một thứ cây chết rũ, một loại người bị chấn thương do Tây tà tra tấn bằng bàn tay sắt bọc vải, bầm nát ngũ phủ lục tạng tuy bên ngoài vẫn còn chút nào đó dáng vẻ bình thường.

Người đàn ông ngồi đó, mặt co rúm nhăn nheo của một thứ trái chín héo vì quá nắng, mắt ơ hờ ngó ra con đường đất đỏ bụi mù trước mặt, bất động tới cả từng thớ thịt mặt. Tôi biết chắc chắn cái hàng rào bông bụp đầy bông nở đỏ thắm ngoài kia, cái hàng rào đặc biệt được đóng cột bằng mấy cây so đũa trái lòng thòng và sợi dây kẽm giăng kế đó, nơi con gái ông phơi quần áo hằng ngày, không lọt vào trong giác trường của ông. Kể cả những người học trò đạo tỳ mặc quần áo đen viền trắng lăn xăn lít xít vì chuyện của thầy cũng vậy thôi, không có. 

Thời gian và hoạt cảnh trên cõi đời nầy hình như đối với ông không còn nữa. Dàn đờn trổi ò-e ngưng trổi không biết bao nhiêu chập, tôi để ý nhưng không thấy vợ chồng ông Hai Một nhúc nhích cục kịt gì, ngay cả khi một người đệ tử tới trước mặt ông cung kính xin phép cho mình được thay ông điều khiển cuộc 'di quan', ông cũng không trả lời hay hạ cái màn vô hồn trước ánh mắt mình xuống, mặc cho đám đệ tử và ông Hòa Thượng già điều khiển việc khiêng cái hàng ra khỏi khung cửa chật hẹp của căn nhà. 

Hai chung rượu để trên nắp hàng sóng sánh rồi tràn ra vài giọt do sự điều khiển không thành thạo của người đệ tử trẻ ông cũng không thấy, không biết. Hồn ông đương ở trong một cảnh giới ta-bà nào đó xa xăm, chỉ cái thân xác ngũ uẩn hiện diện mà thôi.

Ðám ma ra tới đầu ngõ, ông Hai Một mới choàng tỉnh khỏi cơn mộng du, đứng dậy bước chậm rãi theo vài ba người đi chót sau khi đã ngó bà vợ và lắc đầu trong tiếng thở dài. Người đàn bà ngồi trên cái ghế dựa, mắt vô hồn ngó tôi khi tôi tới kế bên nói mấy lời chia buồn cho phải phép. 

Không có một giọt nước mắt nào trên khóe mắt của người đàn bà suối lệ dễ tuông này. Không có cả một hít, khịt mũi nhỏ nhoi. Không có cả chuyện đỏ hoe hai mắt hay tiếng kể lể phân bua. Vậy đó. Một sự im lặng tuyệt đối của môi trường chân không. Vô lý tới khó tin.

Tôi ngó lại lần nữa tấm hình người quá cố. Cô gái có nụ cười thật buồn nhưng vẻ trẻ trung làm nao nao lòng người. Ðôi mắt sâu thăm thẳm của cô khiến ai nấy dòm qua một lần cũng phải ngó lại một lần nữa. Cái đẹp man dại và lôi cuốn. Cái đẹp của một cánh đồng đầy hoa thắm bên triền núi rộng cao. 

Có thể hình ảnh cô gái trẻ mới chết có sức mạnh tạo xúc động cho người sống—và một chút bằng lòng vì sự bất hạnh giáng xuống người khác chớ không phải mình—khiến phải ngó thêm. Tôi thấy trí mình coi bộ cải lương khi bỗng nhớ tới câu thơ có mấy chữ 'hồng nhan bạc mệnh.'

'Vợ chồng họ làm nghề thất đức nên bây giờ như vậy đó,' người dẫn đường kéo tôi về thực tế khi anh bấm tay tôi nói nhỏ. 'Cha tẩn liệm, di quan người khác lôi thôi, nên Trời khiến tới phiên con mình thì sững sờ muốn tự tay săn sóc cũng không làm được. Tụi học trò đạo tỳ nó làm đâu có đúng lễ. 

Hồn ma trước đây họ về trả thù đó. Biết bao nhiêu lần ổng bẻ tay bẻ chưn thiên hạ mạnh tay hay làm ẩu xị cho qua. Biết bao nhiêu lần ổng thay áo thay quần hay tẩn liệm dụt chạc, nhứt là người nghèo... Ðể rồi coi, hồn cô ta còn lẩn quất nhiều ngày trên trần thế chưa xuống dưới đó liền được đâu. Thiếu lễ đi đâu có xuôi chèo mát mái. Nhiều khi nó về nó phá nữa là khác.'

Không đồng ý với nhận xét nầy, nhưng tôi không cãi. Con người ta sinh ra vốn là mục tiêu cho những tấn kích cách nầy cách nọ của tất cả ai khác trên đời, huống gì chú Hai Một làm một nghề thiên hạ chỉ thấy sợ hãi và xa cách.

Không muốn khơi mào một cuộc đấu khẩu vô ích, tôi chỉ qua thím Hai Một, chưa kịp nói gì thì người dẫn đường đã lên tiếng, lần này pha một chút giọng thầy đời.

'Thói thường thương vay khóc mướn tới khi cần khóc cho mình thì hết nước mắt.'

Phải, điều gì xài quá thì mau hết, cái lý đó cũng đâu có gì là khó hiểu. Nói một cách trừu tượng, cái tình thương bà ta xài cho thiên hạ trong bao nhiêu năm trường 'khóc đám' khiến cho bà ta cạn tuyệt tình thương đối với con gái mình. Suối lệ cạn nguồn người ta thường nói vậy hoài.

Vâng, lý luận này có vẻ hữu lý nếu — và nếu, và nếu
— tình thương là một dạng của vật chất cụ thể. Con người ta thường tỏ ra mình thông thái, mình phải, mình hay như cái anh chàng nói nhiều nầy. Mấy ai biết được và thông cảm được với vợ chồng ông nhưng quan Hai Một. 

Tình thương con biển trời lai láng của họ khiến tất cả những biểu lộ bình thường khác đã trở thành vô nghĩa, không phù hợp. Với người sơ tôi đã khóc, và đã khóc mùi mẫn, với con gái cưng của tôi, tôi cũng khóc như vậy hay thôi sao? Tại sao tôi phải giống thiên hạ biểu lộ tình thương bằng nước mắt kia chứ? 

Có sự khác biệt giữa con gái tôi và người thiên hạ chứ? Nếu khóc đám làm xôm đám chớ không biểu lộ tình yêu thương chân thật thì cái gì mới diễn tả được lòng thương con của tôi đây. Con ơi, con nỡ bỏ cha mẹ già một mình ra đi sao con...

Tôi dòm lại dáng thất thểu của chú Hai Một sau đuôi đoàn người. Bước thấp bước cao, hụt hẫng như một hình nộm được điều khiển vụng về. Tôi ngó lại thím Hai Một, cũng dáng ngồi đó không biết bao lâu rồi, hai tay buông xuôi trên vế, bất động của một pho tượng đất sét, thểu não của một thứ người tuyết đương tan rã từ từ. Thím sẽ ngã xuống. Chắc chắn như vậy.

Tôi bỏ ra về, không dám ngó lại một tấm hình khác ở trên bàn thờ. Cuộc đời người con gái đó bình thường, cái chết cũng có thể rất bình thường nhưng một nhân duy-ên đặc biệt đã hé mở cho tôi một cánh cửa để nhận thấy rõ ràng về tấm lòng nhỏ nhen, ganh ghét của người đời nói chung và nỗi đau đớn khôn cùng của cặp vợ chồng già mất con trẻ nói riêng.

Trên đường về không khí bỗng nhiên nặng nề u ám ngang. Tôi ngậm câm cho tới lúc chia tay.

Tại sao? Tôi xúc động vì lòng thương con trời biển bao la đến nỗi mất hồn của cặp vợ chồng nhưng quan - khóc đám Hai Một. Mà cũng có lẽ là do tình cảm trân trọng đối với một cánh rừng đang chứa chấp một loài trân cầm dị điểu kỳ hoa hiếm hoi đang trên đà tuyệt chủng. 

Sau nầy lắm lúc ngồi ôm súng ở một vùng đồi núi cao nguyên, đêm về bốn bề tĩnh mịch, giữa cảnh trùng trùng của bóng tối bao la, trí nhớ bình bồng trôi về quá khứ, tôi ngạc nhiên thấy kỷ niệm của mình về Sàigòn không chỉ nằm trong chỗ những sinh hoạt ồn ào tục tằn ở các khu ổ bùn lầy nước đọng từng sống một thời gian dài lúc trẻ, và những nơi có kiến trúc nguy nga tráng lệ có dịp đặt chơn tới sau nầy khi đã thành nhơn, mà còn nằm ở cảnh trí đơn giản của một buổi sáng ven đô nơi ít người biết tới là làng Bình An bên kinh Ruột Ngựa, chỗ căn nhà có hàng rào bông bụp, xen kẽ bằng hàng cây so đũa lòng thòng trái...

Không ai chịu mất thì giờ đào sâu vào chốn tận cùng tâm hồn mình để tìm hiểu những yếu tố cụ thể nào khiến mình yêu đậm đà quê hương xứ sở, thân mến tuyệt cùng với nơi mình lớn lên trong buổi đầu đời.

Mà cần gì tìm hiểu nguyên nhân?

Sàigòn cũng vậy, đối với tôi thân thiết, đáng nhớ, xa trong thực thức nhưng tiềm thức không bao giờ xa. Bao nhiêu đó đã là quá đủ. Một vài chi tiết cụ thể về nơi nầy nơi nọ, người nầy người kia, nói cho cùng, cũng chỉ như một nhúm sao nhỏ nhoi trong vũ trụ bao la của triệu triệu dãy Ngân Hà.

Xem thêm:

Biển trời lai láng

Gần nửa đời người lăn lóc đó đây trên nhiều khu khác biệt của đất Sài-gòn vậy mà tôi chỉ thấy được hai mặt, hoặc tráng lệ nguy nga đè bẹp con người dưới gông cùm kim tiền vật chất, hoặc bùn lầy nước đọng chết đuối con người bằng những thứ tầm thường nhỏ mọn như miếng ăn chỗ ở. 

Không có bộ mặt nào khác hơn. Sài-gòn đối với tôi, như vậy trên bản chất giống bất cứ một thành phố nào trên thế giới, không thể tìm thấy tánh cách thuần túy Việt Nam. Tôi một thời lơ là với Sài -gòn cũng vì lẽ đó. 

Thế nhưng có ai chơi cắc cớ hỏi tính chất Việt của một thành phố là cái gì, nằm trong địa hạt nào của muôn ngàn dáng vẻ biểu hiện từ văn minh đến văn hóa, chắc thế nào tôi cũng ậm ừ cho qua bởi không thể nào vẽ lên, tả được những nét tận tường. 

Ổ chuột và những căn nhà chông chênh trên mặt sông bùn lầy đen đúa thì hiện diện ở bất cứ thành phố nào của xã hội nghèo nàn, nhất là vùng Ðông Nam Á. Xã hội tân tiến Tây phương ít xóm nghèo, ít hang cùng ngõ hẻm hơn, ít nhưng không phải là không. Nhà lầu cao với những kiến trúc tân kỳ càng ngạo nghễ, đẹp mắt càng không thể tượng trưng cho Việt chất. 

Chộp nắm được phần nào dễ thương, là lạ trong kiến trúc, trong lối ăn nếp ở, trong cách xử thế tiếp vật, trong một nghề nghiệp đặc biệt, tôi, lòng lúc đó đương lạnh tanh, nôn nao sung sướng như hồi nhỏ được về quê thấy lại cái lò gạch cũ, nghe được mùi thơm từ khu vườn mía Tây của người láng giềng, ngó mãn nhãn những miếng ruộng lớn đại nối tiếp nhau chạy tới mút chân trời, hay thấy con sông hiền hòa thỉnh thoảng có vài chiếc ghe lồng trôi chầm chậm...

Ðiều dễ thương đối với tôi cũng bình thường thôi. Thường là những căn nhà ở vùng Bà Chiểu, Thủ Ðức, ba gian hai chái, vách bổ kho, mái ngói âm dương, cột danh mộc tròn lên nước bóng lưỡng dựng chững chạc trên từng tảng đá xanh vuông vức, trong nhà đối liễn vẫn còn treo trên những vị trí trang trọng. 

Hay một cái bàn 'ông thiên' giữa trời thường thấy ở vùng Giồng Ông Tố với hình ảnh người chủ gia đình, lúc vừa chụp tối, bận áo bà ba hai tay chấp nắm nhang xá xá bốn phương trời. Hoặc một cái gáo dừa gắn cán dài úp trên lu nước dựng ngoài mái hiên bắt gặp thường xuyên từ khoảng Cầu Hàn đổ ra đến nửa đường đi Nhà Bè hay từ phía Phú Lâm đổ lên Gò Ðen. 

Có những hình ảnh nhỏ hơn và tầm thường hơn như tiếng võng đưa kẽo-kẹt vào lúc giữa trưa trời đứng gió. Võng phải treo phía trên một cái giường tre khập khễnh mới đúng điệu, hòa hợp vời cảnh trí xa xa là một bụi tre mà ngọn và tất cả lá đều đương đứng im lìm trầm ngâm ngó trời như thường thấy ở xóm Cầu Tre trước đây thì càng tốt.

Nhưng tôi chưa đủ thời giờ để nhìn cho thỏa mắt, chưa đủ lớn để chíp vô ký ức cất làm kỷ niệm riêng cho đời mình thì các cảnh trí trên phần nhiều đã bị sóng thời gian tàn nhẫn phủ lấp chìm hay bóp cho biến dạng theo sự đổi thay tất nhiên của xã hội. Chúng mất hút đi mau chóng, tới khi tôi kịp rãnh rỗi ngó lại thì còn chẳng thấy được bao nhiêu.

À, hình như là Sài- gòn phát triển theo tốc độ phi mã của thời đại tân tiến nên tiêu diệt mất những vết tích nhà quê nghèo nàn nhưng dễ thương của một sinh hoạt tiền đô thị mà trước đây tôi tưởng lầm là nét chấm phá nào đó của Việt tính. Nhưng không sao, tôi biết được bịnh mình. 

Mình thèm, mình thiếu trong máu huyết một mảnh trời quê và đương đòi Sài-gòn cung cấp cho một chút quê mùa đó. Ðô thị vây hãm tầm mắt bằng nhà cao, hãng xưởng và xe bụi, Sài-gòn giới hạn tâm hồn người bằng chuyện thành phố lẩm cẩm tình-tiền-thù không có gì đặc trưng, tôi cảm thấy thiếu một khung trời khoáng đãng, thèm một chút hoàn cảnh thuận tiện để buông thả tâm hồn, tôi thiếu tình người ở trạng thái sơ tâm...


Phật pháp ứng dụng Biển trời lai láng

Trong tâm thái hoài cổ nao nao của nỗi thèm khát đó tôi được nghe chuyện hai vợ chồng chú Hai Một nhưng quan, khóc đám.

Như bao nhiêu lần trước, Chú Hai Một khi vô tới hàng ba, dợm cẳng bước lên ngạch cửa, thì quay về phía sau rầy dức vợ sao chậm lục còn hơn bà già đi âm phủ rồi xăn xáy bước ào vô nhà như con trốt, bỏ mặc kệ thím Hai còn đủng đỉnh đánh-đồng-xa đâu đó mút tí tè ngoài đầu ngõ.

Nhiều người ngưng chuyện trò len lén ngước lên quan sát người khách mới, cách quan sát có chút tò mò đó, nhưng e dè, xa cách. Nhiều người, cử chỉ bỗng nhiên chậm rãi hơn như đương bận dồn hết giác quan để bí mật theo dõi chuyện gì đó xảy ra chung quanh. Có người còn liếc liếc rồi lại giả bộ cúi xuống hớp ly nước dở dang nãy giờ để lơ là trước mặt. 

Không một câu hỏi nào được nói lên thành lời, chỉ có những câu hỏi thầm ngầm chứa trong thái độ và cử chỉ. Chú Hai Một tuy vậy cũng đã biết mình phải nói gì nên lên tiếng trước, chú nói trống không nhưng thật ra là nói với toàn thể những người đương có mặt.

'Ðược rồi, để đó tôi lo liệu cho. Bà con mình không chớ ai vô đây,' chú hỏi tiếp theo sau khi dòm sơ qua một vòng từ những người ngồi ở cái bàn gần cửa tới một số người trai trẻ ngồi bỏ chưn thòng xuống đất trên bộ ngựa rồi tới những người hơi lạ lạ ngồi tuốt trong gần chỗ cái màn cửa ngăn với nhà trong. 'Mà hồi nào vậy? Hôm kia hôm kìa gì đây tôi còn thấy ảnh đi băng-xiên băng-nai, té lên té xuống trước nhà tôi, quần ống cao ống thấp, lè nhè, con nít chạy theo coi rùm trời. Gì mà mau vậy?' 

Ba bốn tiếng giọng thanh niên, mau mắn tranh nhau nói với khách. 'Chị Sáu thấy xác ảnh nằm vắt vẻo nửa trên nửa dưới ở cái mương cá đằng nhà thằng cha Ba Khìa hồi tưng bửng sáng....' 

'Chắc đâu hồi khuya....' 'Trúng gió, té nước... ' Tiếng xì xào bàn góp thêm chi tiết như một thứ bịnh truyền nhiễm chuyền từ nhóm nầy sang nhóm kia, phá tan bầu không khí lạnh nhạt e dè từ khi chú Hai Một bước vô. Một tay tổ nào đó, ý chừng là bạn nhậu thân tình với nạn nhân, chêm vô một câu diễu vô duyên ớn. 'Chắc đâu cũng đốn hết mấy lít rồi nên nóng nảy trong mình, về khuya gặp nước, tắm mát rồi khoái chí tử nằm ì ra đó không chịu lên.'

Những cặp mắt bây giờ đổ dồn về phía tay anh chị ăn nói bạt mạng đó. Trách móc, khinh thị, bất bình. Biết mình nói hớ, anh ta cười cầu tài, sửa. 'Ậy… mà sinh ký tử quy. Chết trẻ khoẻ ma, chết già lụm khụm. Anh Sáu thọ như vậy là được rồi, năm mốt bước qua năm ba bước lợi đâu có bao nhiêu người qua khỏi cái cầu nầy. Ậy… mà đời bây giờ còn sống là còn khổ. Chính tôi đây nè, nhiều khi khổ quá mạng, cầu trời chết cho rảnh nợ mà không được.'

'Con vợ thằng Sáu nóng ruột chồng đi cả đêm không về nên trời vừa hừng hừng sáng là lo xách đèn đi kiếm, ai dè sự thể như vầy...' một tiếng đàn bà nhỏ nhẹ, nói với mọi người mà như nói với mình. 'Í hị!' Tiếng thở dài thương hại thay cho cái chấm câu.

Chú Hai Một quay qua cúi đầu chào người đàn bà, bà vừa nói tiếp vừa gật đầu chào lại, giọng nho nhỏ pha một chút mủi lòng.

'Tội nghiệp, cái thằng say sưa vậy mà cũng biết lo tưởng tới vợ con, trên bờ mương còn hai xâu thịt heo quay với một mớ bánh bò trắng nằm lăn lóc. Tao tiếc quá lượm đem về bỏ trong gạt-măng- giê... Cái số con vợ nó không được ăn heo quay, chồng đem về chưa tới ngõ đã lăn đùng ra theo ông theo  bà.'

'Tuần rồi ảnh với tôi còn leo lên nóc nhà lợp lại cái mái lá dột phía trước hết một buổi trời,' người đàn ông hồi nãy cũng cái mửng cũ vừa nói vừa khoe. 'Thiệt anh Sáu khỏe còn hơn tiên, hồi nào tới giờ ở nhà quê mà sống theo kiểu dân cậu, đâu cần động tới móng tay....' Anh ta đổi giọng vui vui. 'Chắc biết mình sắp đi nên bữa đó mới chịu khó trả nghĩa vợ lần chót.'

Nhiều tiếng cười tán thưởng ở phía đám thanh niên hòa chung với vài cái hứ bất bình từ đám đàn bà.

Chú Hai Một bây giờ mới quay về phía người đàn ông nọ. Chú biết là ai nhưng cũng không thèm để ý tới chuyện chào hỏi, cũng không thèm cười góp mà chỉ hất hàm một cách trống không về phía buồng.

'Ờ, ở trong đó đó,' Bà già vừa nói hồi nãy hiểu ý trả lời hớt mọi người. 'Tội nghiệp, sớm tới giờ hai mẹ con nó xà quần trong đó. Bây giờ chắc là đương lo thay quần áo cho ‘thẳng’. Bùn đất không... Hồi mới đem về.... ướt mèm ướt mẹp nên tụi nó xót ruột. Nhà không có đàn ông con trai để lo mấy chuyện đó nên tụi nó phải làm. Ðâu thằng Hai mầy vô coi coi, liệu giúp đỡ gì được mẹ con nó thì giúp.'

Thím Hai Một tới bây giờ mới vô tới hàng ba. Khác với chồng, thím thủng thẳng bước nhích nhích từng bước một, đầu cúi xuống, hai đầu khăn rằn hết đầu nầy đưa lên chùi nước mắt tới đầu kia đưa lên chùi nước miếng nước mũi. Người trong nhà chưa ai thấy mặt mày thím nhưng tiếng khóc xụt xùi hòa với tiếng hít khịt mũi đã nghe rõ ràng, nức nở đứt ruột đứt gan, lâm li như tiếng khóc dễ mủi lòng của bà con ruột thịt khi mất người thân thương.

Không mấy ai ngạc nhiên trước cảnh nầy. Chuyện thím khéo dư nước mắt khóc người 'thân sơ' dân làng Bình An đâu ai lạ lùng gì. Nghề nghiệp. Nghề nghiệp ít người theo như vợ chồng thím. Hai ông bà đã từ bao lâu nay trở thành một cặp bài trùng không thể thiếu trong mấy đám ma chẳng những quanh quẩn trong mấy cái cù lao giữa kinh Ruột Ngựa và kinh Tàu Hủ mà nhiều khi còn có người rước lên tới Chợ Ðệm, Bình Ðiền, Gò Ðen nữa. 

Một vài người khách ngạc nhiên quan sát, sao trên đời lại có người lạ lùng như vậy cà, mau nước mắt đã đành lại còn không biết mắc cỡ khi làm chuyện trên đời chỉ có một mình mình. Thím Hai Một khóc ngọt ngào, bất tận. Nước mắt như mưa tuôn trào đầy mặt. Não can tràng hơn tiếng than của đào thương trong gánh hát. Khóc đã đời thím cất giọng kể lể. 'Sáu ơi là Sáu, chú bỏ vợ yếu con thơ chú vội vàng đi đâu. 

Bao nhiêu người thương chú trên đời sao không ở lại. Âm phủ dương gian hai đàng cách trở, từ nay vợ con chú biết trông cậy vô ai? Sáu ơi là Sáu ơi. Ngày trước chú giúp người cô quả, chú thân thiện xóm làng, đầu trên chợ dưới, người dưng họ hàng, ai có chuyện gì chú không nề hà giúp đỡ. Sao người như chú mà trời bắt đi cho nỡ, còn những kẻ lỗi đạo vô nghì lại sống chật trời chật đất, tốn gạo tốn cơm...
Sáu ơi là Sáu ơi.'

Chú Hai Một quay mặt ra cửa, ngó mau về phía vợ, nhăn mày tỏ ý không bằng lòng—quá lố rồi đó, quá trong nước mắt thì còn chấp nhận được, quá trong lời than thì chạm tới biết bao nhiêu người, ăn của chủ nhà bao nhiêu mà đưa lưng mang tiếng oán. Tuy nghĩ bụng như vậy nhưng chú không nói gì, chỉ vén màn bước thẳng vô phòng trong.

Bóng tối âm u của ngọn đèn dầu phọng tim se bằng một miếng vải trắng bỏ trong cái dĩa dầu để dưới gầm giường và cây đèn cầy nhỏ đặt phía dưới chưn người chết chập chờn leo lét, không giúp cho đôi mắt quen với ánh sáng của chú Hai thấy gì hơn là một cụm tối dầy đặc, khổng lồ. 

Chú đứng định thần một hồi hèn lâu mới quen mắt lần. Con nhỏ Huê đương quay lưng về phía chú, mặt quay vô vách, đương giơ cao lên xăm xoi một cách dềnh dàng bộ đồ bà ba hàng màu hột gà của ba nó đâu như là mới vừa được lấy từ trong tủ ra, còn đầy những lằn xếp. Chị Sáu đương rờ rờ nắn nắn hai cánh tay co rút của người chết mà mấy ngón tay cong lại như đương thủ thế để cào cấu ai. Gương mặt chị thểu não pha lẫn nét chán chường. 

Chị biết bổn phận mình phải làm gì nhưng không biết bắt đầu từ đâu và bằng cách nào. Trong lòng chị đương có một sự tương tranh dữ dội giữa hai mặt sợ-thương. Thấy ánh sáng và đã đoán được ai bước vô, chị ngước mắt lên chờ đợi một mệnh lịnh, mệnh lịnh dưới hình thức đề nghị thiệt bình thường nhưng giúp chị ra khỏi cảnh bối rối hiện tại không biết mình phải làm gì mới đúng cách và trọn đạo.

'Chị Sáu với con Huê 'quá bộ' ra ngoài nhà tiếp khách đi,' chú Hai Một nói như ra lịnh, nói lựa chữ văn hoa một cách ăn trét. 'Bà con lối xóm nghe tin hồi nào không biết mà đã kéo tới chia buồn coi bộ hơi bộn rồi đó. Ðầy nhà! Mà tôi thấy có ai ở ngoài đó lo trầu cau nước nôi gì cho khách đâu,' Chú ngừng một chút ngó vô con Huê bây giờ mới day mặt lại phía ánh sáng. 'Với lại ba cái chuyện nầy nên để tôi. Nghề nghiệp ai người nấy làm. Chuyện nầy đâu phải ai cũng mó tay mó chưn vô được.' 

Một lần nữa chú ngó về phía con Huê. 'Ðàn bà con gái gần hơi người mới đi không nên đâu. Ðộc lắm. Về sau bị bịnh hậu khó lòng.' Mặt con Huê, nãy giờ nước mắt đã lăn rơi, buồn lâm ly, đổi sắc liền, mừng thấy rõ, nó bỏ bộ quần áo xuống rồi đi vòng về phía đầu giường của ba nó, sẵn sàng bước ra. 

Chị Sáu trái lại chỉ hơi khựng lại một chút khi nghe nhắc tới mấy tiếng không nên nhưng rồi cũng tiếp tục cố gắng tuột tay áo của chồng ra. Cái áo đã được mở nút cẩn thận, phơi màu da ngực xám ngắt của xác chết dưới ánh đèn. Cánh tay cứng đơ, cà huynh cà hoang, tay áo dính một lớp bùn mỏng thêm phần trở ngại. Chị bậm môi hè hụi giựt mạnh nhưng cũng không ích lợi gì, chỉ làm rớt lộp độp lớp bùn khô xuống giường như bánh tráng nướng bể. Bộ mặt người chết nhăn nhăn với cặp môi đã bắt đầu rút, lòi răng ra cười ngạo cảnh tượng. 

Cánh tay thây ma cứng cong, trì lại phản đối không cho thay bộ quần áo cuối cùng trong đời mình. Chú đánh thêm một đòn tâm lý trong khi thong thả cho tay vô túi trong lục kiến gói thuốc Job đỏ lận theo từ đằng nhà.

'Chết bất đắc kỳ tử linh lắm. Ngày giờ trùng thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Tránh trước thì hơn. Trùng tang liên táng xui mấy đời chớ không ít đâu. Chị với con Huê làm ơn dang ra cho tôi.'

Chú ngừng nói, đứng yên, điếu thuốc đã an vị trên môi, tay mặt cầm sẵn diêm quẹt nhưng chưa quẹt lửa, cố ý đợi hai người phụ nữ bước ra. Thân nhân nào cũng sẽ khó chịu khi thấy xác của người thân bị kéo nắn mạnh tay, mười người như một, ai cũng năn nỉ nầy nọ, xin xỏ vầy khác. Khó lòng. Chú thấy công việc mình làm phải mang tính cách thiêng liêng, bí mật, càng ít người biết mình làm gì với cái xác chết càng tốt. 

Chú đưa tay rờ rờ cái mặt lạnh tanh của thây ma, rồi bằng một cử chỉ thiệt nghề nghiệp chú đưa hai ngón tay cái-trỏ ra kéo kéo hai môi người chết lại cho khít khao hơn như ngầm nói tôi đã sẵn sàng rồi, mời bà con nhường chỗ cho tôi. Tay chú đụng vô chỗ lạnh hơn mình tưởng, chú chửi thầm trong bụng cái thằng nhậu nhẹt chết bờ chết buội, ngâm nước cả đêm để cho cái mặt lạnh còn hơn đá cẩm thạch ướp nước đá. 

Chú đưa mắt ngó con Huê rồi đão qua má nó. Thường thường mời thân nhân của người quá cố ra khỏi buồng chú chỉ cần xài tới mấy tiếng ‘không nên’ đã là quá đủ, họa hoằn lắm mới phải xài tới mấy điều dọa dẫm về chuyện bệnh hậu, trùng tang liên táng mà chú học lóm, khi đi đám đó đây, từ mấy bô lão biết chút ít bói toán thuốc men.

Người đàn bà bỏ cánh tay chồng xuống với một tiếng thở thiệt dài như là bà nín hơi từ lâu lắm bây giờ mới được phép thở. Cách bỏ xuống cũng nhẹ nhàng, ẩn chứa trong đó cả một trời thương yêu. Nhè nhẹ, chầm chậm bước lần về phía cữa. Khoảng cách chỉ vài bước mà như xa thăm thẳm, vừa bước đi vừa ngó ngoái lại như không muốn mất những phút giây chót với chồng. 

Ra khỏi đây rồi, lúc trở vô người chồng đầu ấp tay gối — người mới hôm qua còn gây gổ với chị — một sự gây gổ nhẹ nhàng càm ràm, quen thuộc trong bao nhiêu năm trời, khiến chị cảm thấy mình hiện diện và là một thứ gì khác với những đồ vật vô tri trong nhà

— bấy giờ sẽ thật sự trở thành một cái xác chết đúng nghĩa, hoàn toàn là một cái thây ma lạnh lẽo chờ tới giờ để được bỏ vô hòm đem chôn. Hư vô, mất tuyệt từ đấy. Xa cách đời đời, thật sự, tuyệt đối từ đây. Một xa cách mặc dầu không hình dung được, mới chỉ lấp ló trước mặt đã cắt đứt ruột gan, khiến chị chưa gì đã thấy mình bơ vơ, nhỏ nhoi lạc lõng hơn. 

Chị bật khóc thành tiếng, nấc nghẹn, mặc dầu đã cố dằn xuống ngay từ hồi thấy xác chồng nằm úp mặt nửa trên nửa dưới ở bờ mương — sợ nước mắt nhểu xuống mặt ổng ổng khó đi đầu thai. Chị bỗng nhiên thấy tức mình tại sao bữa hổm ổng đòi uống thêm xị nữa chị tiếc tiền và sợ ổng bịnh không cho con đi mua lại còn biểu nó dấu cái chai đi. 

Phải dè sớm như vậy ổng muốn uống mấy ghe tàu cũng bán nhà mua cho ổng không tiếc tiền. Chị cũng tức mình là tại sao mấy năm trước nghe phong thanh ổng mèo mỡ chị đã làm quá mạng, cằn nhằn cưỡi nhưỡi, cắn xé. Phải dè...

Phải dè... Chị kêu tên chồng, cách thân mến rất ít khi sử dụng từ ngày có đứa con đầu tiên. Con Huê áy náy nắm cánh tay mẹ, chỗ con chuột, mà nó có cảm giác là đầy xương, dẫn ra cửa. Mắt ngập nước, nó cũng ngó ngoái lại lần chót ba nó, vẫn còn nằm trong một vị thế lạ lùng, một cẳng co vô bụng, một cẳng thẳng ra luôn cả bàn chưn, như người đương kiếm cách leo lên khỏi mương nước, hai bàn tay quắp cứng ngắc hai nắm bùn bây giờ đã khô, mấy chỗ tứ chi ló ra khỏi quần áo bao trùm một màu xanh xám đen đen lạnh lẽo khiến nó bắt rùng mình. 

Chị vợ ngó lại lần nữa thi thể người chồng, gật đầu chào chú Hai Một, rồi như len lén giở màn bước ra. Những giọt nước mắt được kềm giữ quá lâu thong thả bò trên gương mặt chị, nhểu xuống ngực áo khi chị bắt gặp những ánh mắt thân tình chia xẻ niềm đau xót của bà con lối xóm bây giờ tới đã tới ngồi đứng chật nhà.

Chú Hai Một nao nao theo dõi hai mẹ con lúp xúp đi trong tiếng thút thít, ánh mắt chú đậu lại trên cái lưng đầy sức sống và bộ hậu láng o của đứa con gái — được ôm bằng cái áo bà ba bó sát và cái quần vải đen dầy ủi thẳng thớm. Chú nheo mắt với mình và cười cười...

Ngoài kia chú nghe rõ tiếng chào của chị Sáu với bà vợ mình. Tiếng khóc của bà ta nín bặt ngang xương. Chú nghe loáng thoáng câu trả lời của vợ: '... Ừ... Kể từ trưa mai cho tới giờ hạ huyệt tôi sẽ ở đây... Ừ.. tiền bạc gì. Ðừng có lo chạy cho mất công. Bà con mình không, ai cũng nghèo chứ đâu có dư dả gì...

Nói nào ngay, tôi cũng đâu giàu có gì hơn với mớ đó'. Tiếng khóc lại nổi lên, bi thương thập bội hơn giọng tỉ tê nhè nhè của vợ người quá cố. Dòm qua chỗ hở do tấm màn bị vướng, chú Hai Một thấy vợ mình đầu bù tóc rối dụi dụi mắt khóc kể như chết cha chết mẹ. Bà ta nhảy từ nhân vật nầy qua nhân vật kia. Ban đầu là bà mẹ vợ. '...

Sáu ơi là Sáu ơi, nhà nầy một mình mầy lo từ trong ra ngoài. Vợ con mầy giờ đây làm sao đủ sức chống chỏi với đời. Ði đâu thấy món ngon vật lạ mầy cũng mua về cho tao, bây giờ mỗi khi thấy quán thấy hàng làm sao tao không khóc được, Sáu ơi là Sáu ơi.' Rồi tới vợ, tới con gái, mỗi người thím đều sáng tác giùm một bài văn tế bình dân nôm na như vậy, kể công đức người chết, vài phần thiệt, vài phần phóng đại những hành trạng mà nếu nghe được chắc người chết cũng phải hổ ngươi. 

Chỉ có một điều là giọng kể lể của thím lâm ly quá, nước mắt của thím sụt sùi quá khiến người nghe không còn đủ bình tĩnh tâm trí để phân biệt đâu thiệt đâu ngoa. Một cảm giác xấu hổ mà chú thường có khi vợ khóc đám người quen như kiểu thằng cha Sáu Say nầy len lỏi vô tim chú. Chú ngờ ngợ như vợ mình làm điều gì sái quấy, quá đáng, hơn sự phải có của điều bình thường, hơn sự bắt buộc của nghề nghiệp. 

Vừa lúc đó con Huê quay lại, đưa tay kéo cái chéo tấm vải màn xuống cho kín cửa buồng. Chú dòm lom lom bàn tay tròn trịa của con nhỏ cho tới khi ánh sáng trong phòng trở thành lù mù. Chú đốt điếu thuốc, dựa vách ngó xác chết, thong thả hít từng ngụm khói say sưa. Mỗi khi trong người có chuyện buồn vui lẫn lộn, những hơi đầu tiên của điếu thuốc vẫn là một thứ thần dược giúp chú tỉnh táo trở về thực tại với một tinh thần sáng suốt vô biên. 

Chú vạch màn dòm ra ngoài nhà trên như là tìm kiếm ai, ánh mắt chú đậu lại phía có con Huê đương đứng. Nghĩ sao không biết chú bước hẳn ra ngoài tới một bàn, cầm lấy chai rượu đế rót đầy một ly lớn, mỉm cười chào mấy người ngồi ở bàn đó rồi quày quả bước vô. Chú cẩn thận bỏ màn xuống, kéo mí lại như ngại ánh sáng bên ngoài có thể chui vô phòng. Tới bên xác chết, chú thiệt sự bắt tay vô công việc: phun phun, bóp bóp sửa nắn lại cho vào vị thế bình thường bộ tứ chi trước đây đã cứng đơ cứng còng. 

Chú cắt rách tay áo và ống quần của xác chết bằng cái kéo nhỏ, vật liệu độc nhứt chú mang theo mình như một thứ dụng cụ nghề nghiệp. Chẳng bao lâu cái công việc mà người vợ nạn nhân loay quay hàng giờ không thực hiện được đã được chú hoàn thành mỹ mãn. Anh Sáu Say bây giờ đã thiệt sự ngủ say trong một tư thế thoải mái, thanh thản.

Chú Hai Một bước lùi một bước, ngắm nghía công trình mình, chú mỉm cười hài lòng và tự thưởng bằng chút cặn rượu còn sót lại trong ly...

Tôi náo nức thiệt tình! Tôi sẽ gặp được cặp vợ chồng truyền nhân chánh của một nghề đang sắp biến mất trong một xã hội trên đà chuyển mình Âu hóa như cái thành phố Sài-gòn nầy. Ðường có xa, có lạ cũng chỉ là dịp để mở rộng nhãn quan thôi ... 

Chúng tôi đi qua cầu chữ U ở bến Thuyền Buồm (Quai des Jonques), một cái cầu tuy lót cây nhưng cao chưa từng thấy. Chiếc mô-bi-lết già chạy tới đâu đà cây lót cầu rung rinh nhúc nhích la hét ầm ầm tới đó, những chiếc bù lon sắt khổng lồ đưa lên như hàm răng con quái vật cầu sẵn sàng cắn vô vỏ bánh xe. Cây ván trơn chao đảo tay lái, tôi phải kềm thật vững.

Ðã hết đâu. Lại còn qua một cái cầu chữ U khác y hịt như vậy ở ngay trước chợ Bình Ðông. Sao vùng nầy lạ lùng vậy, cầu cao không tráng xi-măng hay trải nhựa, chỉ lót bằng cây mà lại lót xuôi theo đường xe cộ chạy?

Người dẫn đường như đoán được ý tôi, giải thích ba hoa. 'Vùng nầy không có thế để làm dốc nên cầu phải xây hình chữ U, cũng không thể xây bằng vật liệu nặng vì bờ kinh hẹp, đất hai bên lại mềm, không có chỗ đúc móng chưn cầu. Phải xây cao cho ghe chài qua lại bỏ lúa vô chành hay lấy lúa từ trong chành ra chở đi Lục tỉnh, lên Nam Vang ... Ngày trước ghe chài ra vô khúc kinh nầy liền liền, bây giờ có thêm kho chứa ở Bến Tàu nên ít đi đó chớ.

Tuy không biết rõ ràng danh từ ‘chành’ là gì nhưng tôi cũng mường tượng đoán được đó là một thứ kho chứa trữ nên mần thinh không hỏi như mọi khi. Cảnh tượng quê nhiều hơn tỉnh của vùng nầy trở thành một thứ loại ven biên đô thị mới ngó qua đã bắt mắt nên tôi cũng làm biếng nghe thêm. Cái thằng cha nầy có khả năng nói chuyện nầy qua chuyện kia lòng vòng ba bốn ngày không hết, đừng nên khươi cho nó nói không nhằm lúc.

'Gần tới chưa?' Tôi hỏi cũng là cách dẫn anh ta vô chuyện chánh. 'Sao chưa thấy cái đình anh nói?'

'Ði đò qua bên bờ kia. Ðó là làng Bình An, đình Bình An cách bến đò chừng một cây số ngàn,' hắn trả lời rành rọt. 'qua đò rồi lội một đỗi nữa thì tới nhà họ. Không xa đâu.'

Lại còn thêm chuyện đò! Ánh mặt trời chói chang trên đỉnh đầu. Coi bộ hơi trưa. Sài-gòn lẩm rẩm mà rộng thinh thang, đi nửa ngày từ trung tâm chưa ra tới ven biên.

Con đò ngang đưa khách qua bên đình do một cô gái trắng trẻo độ mười sáu mười bảy tuổi thong thả đẩy đưa mái chèo. Những nhịp đẩy-kéo căng lên căng xuống bộ ngực tròn mạnh thiếu nữ. Nàng thành thạo, không tỏ vẻ gì tốn sức tốn công. Tôi chợt nhớ tới chuyện thơ nàng Tiên Bửu xinh đẹp, thông minh chèo đò. Chỉ tiếc mình không có bộ râu dài phất phơ và tài đối đáp như ông Trượng.

Cảnh vật hai bên bờ kinh hiền hòa. Nhà cửa khang trang của một vùng quê trù phú. Mạ non xanh mởn. Sóng lụa rung rinh trên đầu lúa. Gió mát thơm mùi hạt lúa còn đương ngậm sữa. Vài căn nhà lá ẩn hiện sau những tàn cây mít, vú sữa xum xuê. 

Nét thanh bình có thể cảm thấy vương vương lãng đãng cùng khắp không khí. Trong khung cảnh như vậy mà gặp được một cái đám ma để quan sát luôn tài nghệ của vợ chồng Hai Một 'ra đám', 'khóc đám' thì còn gì thích thú bằng. Một công hai ba việc. Khỏi phải đi về chờ đợi lôi thôi.

Tôi mừng rỡ khi nghe tiếng kèn đám ma văng vẳng từ xa xa khuất đâu trong xóm. Trúng mối rồi. Mấy thuở trời chìu lòng người, cầu được ước thấy.

Vậy mà tôi không được chứng kiến gì hết những điều cần chứng kiến, mặc dầu kèn đám ma đương ò -e ngay tại nhà ông Hai Một. Tôi không gặp một ông 'nhưng quan' tài nghệ đặc biệt, điều khiển mọi chuyện liên quan đến động quan, di quan bằng nhạc của hai khúc tre. 

Tôi không gặp một người đàn bà bán nước mắt, khóc mướn trong mấy đám ma, ré lên từng hồi cắt dạ rồi xuống giọng tỉ tê bi thảm đau thương, kéo dài ngày nầy qua ngày khác từ lúc tẩn liệm cho tới khi hạ huyệt. Những hình ảnh lạ lùng tôi có trong trí vẽ ra do người dẫn đường khi giới thiệu về cặp kỳ nhân nầy không thấy đâu nữa. 

Còn lại chăng là một cặp vợ chồng già héo úa từ sâu thẳm trong lòng héo ra, một thứ cây chết rũ, một loại người bị chấn thương do Tây tà tra tấn bằng bàn tay sắt bọc vải, bầm nát ngũ phủ lục tạng tuy bên ngoài vẫn còn chút nào đó dáng vẻ bình thường.

Người đàn ông ngồi đó, mặt co rúm nhăn nheo của một thứ trái chín héo vì quá nắng, mắt ơ hờ ngó ra con đường đất đỏ bụi mù trước mặt, bất động tới cả từng thớ thịt mặt. Tôi biết chắc chắn cái hàng rào bông bụp đầy bông nở đỏ thắm ngoài kia, cái hàng rào đặc biệt được đóng cột bằng mấy cây so đũa trái lòng thòng và sợi dây kẽm giăng kế đó, nơi con gái ông phơi quần áo hằng ngày, không lọt vào trong giác trường của ông. Kể cả những người học trò đạo tỳ mặc quần áo đen viền trắng lăn xăn lít xít vì chuyện của thầy cũng vậy thôi, không có. 

Thời gian và hoạt cảnh trên cõi đời nầy hình như đối với ông không còn nữa. Dàn đờn trổi ò-e ngưng trổi không biết bao nhiêu chập, tôi để ý nhưng không thấy vợ chồng ông Hai Một nhúc nhích cục kịt gì, ngay cả khi một người đệ tử tới trước mặt ông cung kính xin phép cho mình được thay ông điều khiển cuộc 'di quan', ông cũng không trả lời hay hạ cái màn vô hồn trước ánh mắt mình xuống, mặc cho đám đệ tử và ông Hòa Thượng già điều khiển việc khiêng cái hàng ra khỏi khung cửa chật hẹp của căn nhà. 

Hai chung rượu để trên nắp hàng sóng sánh rồi tràn ra vài giọt do sự điều khiển không thành thạo của người đệ tử trẻ ông cũng không thấy, không biết. Hồn ông đương ở trong một cảnh giới ta-bà nào đó xa xăm, chỉ cái thân xác ngũ uẩn hiện diện mà thôi.

Ðám ma ra tới đầu ngõ, ông Hai Một mới choàng tỉnh khỏi cơn mộng du, đứng dậy bước chậm rãi theo vài ba người đi chót sau khi đã ngó bà vợ và lắc đầu trong tiếng thở dài. Người đàn bà ngồi trên cái ghế dựa, mắt vô hồn ngó tôi khi tôi tới kế bên nói mấy lời chia buồn cho phải phép. 

Không có một giọt nước mắt nào trên khóe mắt của người đàn bà suối lệ dễ tuông này. Không có cả một hít, khịt mũi nhỏ nhoi. Không có cả chuyện đỏ hoe hai mắt hay tiếng kể lể phân bua. Vậy đó. Một sự im lặng tuyệt đối của môi trường chân không. Vô lý tới khó tin.

Tôi ngó lại lần nữa tấm hình người quá cố. Cô gái có nụ cười thật buồn nhưng vẻ trẻ trung làm nao nao lòng người. Ðôi mắt sâu thăm thẳm của cô khiến ai nấy dòm qua một lần cũng phải ngó lại một lần nữa. Cái đẹp man dại và lôi cuốn. Cái đẹp của một cánh đồng đầy hoa thắm bên triền núi rộng cao. 

Có thể hình ảnh cô gái trẻ mới chết có sức mạnh tạo xúc động cho người sống—và một chút bằng lòng vì sự bất hạnh giáng xuống người khác chớ không phải mình—khiến phải ngó thêm. Tôi thấy trí mình coi bộ cải lương khi bỗng nhớ tới câu thơ có mấy chữ 'hồng nhan bạc mệnh.'

'Vợ chồng họ làm nghề thất đức nên bây giờ như vậy đó,' người dẫn đường kéo tôi về thực tế khi anh bấm tay tôi nói nhỏ. 'Cha tẩn liệm, di quan người khác lôi thôi, nên Trời khiến tới phiên con mình thì sững sờ muốn tự tay săn sóc cũng không làm được. Tụi học trò đạo tỳ nó làm đâu có đúng lễ. 

Hồn ma trước đây họ về trả thù đó. Biết bao nhiêu lần ổng bẻ tay bẻ chưn thiên hạ mạnh tay hay làm ẩu xị cho qua. Biết bao nhiêu lần ổng thay áo thay quần hay tẩn liệm dụt chạc, nhứt là người nghèo... Ðể rồi coi, hồn cô ta còn lẩn quất nhiều ngày trên trần thế chưa xuống dưới đó liền được đâu. Thiếu lễ đi đâu có xuôi chèo mát mái. Nhiều khi nó về nó phá nữa là khác.'

Không đồng ý với nhận xét nầy, nhưng tôi không cãi. Con người ta sinh ra vốn là mục tiêu cho những tấn kích cách nầy cách nọ của tất cả ai khác trên đời, huống gì chú Hai Một làm một nghề thiên hạ chỉ thấy sợ hãi và xa cách.

Không muốn khơi mào một cuộc đấu khẩu vô ích, tôi chỉ qua thím Hai Một, chưa kịp nói gì thì người dẫn đường đã lên tiếng, lần này pha một chút giọng thầy đời.

'Thói thường thương vay khóc mướn tới khi cần khóc cho mình thì hết nước mắt.'

Phải, điều gì xài quá thì mau hết, cái lý đó cũng đâu có gì là khó hiểu. Nói một cách trừu tượng, cái tình thương bà ta xài cho thiên hạ trong bao nhiêu năm trường 'khóc đám' khiến cho bà ta cạn tuyệt tình thương đối với con gái mình. Suối lệ cạn nguồn người ta thường nói vậy hoài.

Vâng, lý luận này có vẻ hữu lý nếu — và nếu, và nếu
— tình thương là một dạng của vật chất cụ thể. Con người ta thường tỏ ra mình thông thái, mình phải, mình hay như cái anh chàng nói nhiều nầy. Mấy ai biết được và thông cảm được với vợ chồng ông nhưng quan Hai Một. 

Tình thương con biển trời lai láng của họ khiến tất cả những biểu lộ bình thường khác đã trở thành vô nghĩa, không phù hợp. Với người sơ tôi đã khóc, và đã khóc mùi mẫn, với con gái cưng của tôi, tôi cũng khóc như vậy hay thôi sao? Tại sao tôi phải giống thiên hạ biểu lộ tình thương bằng nước mắt kia chứ? 

Có sự khác biệt giữa con gái tôi và người thiên hạ chứ? Nếu khóc đám làm xôm đám chớ không biểu lộ tình yêu thương chân thật thì cái gì mới diễn tả được lòng thương con của tôi đây. Con ơi, con nỡ bỏ cha mẹ già một mình ra đi sao con...

Tôi dòm lại dáng thất thểu của chú Hai Một sau đuôi đoàn người. Bước thấp bước cao, hụt hẫng như một hình nộm được điều khiển vụng về. Tôi ngó lại thím Hai Một, cũng dáng ngồi đó không biết bao lâu rồi, hai tay buông xuôi trên vế, bất động của một pho tượng đất sét, thểu não của một thứ người tuyết đương tan rã từ từ. Thím sẽ ngã xuống. Chắc chắn như vậy.

Tôi bỏ ra về, không dám ngó lại một tấm hình khác ở trên bàn thờ. Cuộc đời người con gái đó bình thường, cái chết cũng có thể rất bình thường nhưng một nhân duy-ên đặc biệt đã hé mở cho tôi một cánh cửa để nhận thấy rõ ràng về tấm lòng nhỏ nhen, ganh ghét của người đời nói chung và nỗi đau đớn khôn cùng của cặp vợ chồng già mất con trẻ nói riêng.

Trên đường về không khí bỗng nhiên nặng nề u ám ngang. Tôi ngậm câm cho tới lúc chia tay.

Tại sao? Tôi xúc động vì lòng thương con trời biển bao la đến nỗi mất hồn của cặp vợ chồng nhưng quan - khóc đám Hai Một. Mà cũng có lẽ là do tình cảm trân trọng đối với một cánh rừng đang chứa chấp một loài trân cầm dị điểu kỳ hoa hiếm hoi đang trên đà tuyệt chủng. 

Sau nầy lắm lúc ngồi ôm súng ở một vùng đồi núi cao nguyên, đêm về bốn bề tĩnh mịch, giữa cảnh trùng trùng của bóng tối bao la, trí nhớ bình bồng trôi về quá khứ, tôi ngạc nhiên thấy kỷ niệm của mình về Sàigòn không chỉ nằm trong chỗ những sinh hoạt ồn ào tục tằn ở các khu ổ bùn lầy nước đọng từng sống một thời gian dài lúc trẻ, và những nơi có kiến trúc nguy nga tráng lệ có dịp đặt chơn tới sau nầy khi đã thành nhơn, mà còn nằm ở cảnh trí đơn giản của một buổi sáng ven đô nơi ít người biết tới là làng Bình An bên kinh Ruột Ngựa, chỗ căn nhà có hàng rào bông bụp, xen kẽ bằng hàng cây so đũa lòng thòng trái...

Không ai chịu mất thì giờ đào sâu vào chốn tận cùng tâm hồn mình để tìm hiểu những yếu tố cụ thể nào khiến mình yêu đậm đà quê hương xứ sở, thân mến tuyệt cùng với nơi mình lớn lên trong buổi đầu đời.

Mà cần gì tìm hiểu nguyên nhân?

Sàigòn cũng vậy, đối với tôi thân thiết, đáng nhớ, xa trong thực thức nhưng tiềm thức không bao giờ xa. Bao nhiêu đó đã là quá đủ. Một vài chi tiết cụ thể về nơi nầy nơi nọ, người nầy người kia, nói cho cùng, cũng chỉ như một nhúm sao nhỏ nhoi trong vũ trụ bao la của triệu triệu dãy Ngân Hà.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Đạo Phật đang phát triển nhanh chóng tại Úc Châu, nơi các Hội đồng Phật giáo không kịp đào tạo các giáo viên thiện nguyện cho các trường công để đáp ứng làn sóng học sinh muốn tìm học về tôn giáo hòa bình này. 

Nhiều trường công lập Úc châu có tiết học dài 30 phút về tôn giáo, trên nguyên tắc không phải là truyền giáo nhưng là giúp tìm hiểu về tín ngưỡng của nhân loại, và học sinh có quyền lựa chọn để học một hay nhiều tôn giáo, hoặc chỉ học thuần túy về đạo đức học. Do vậy, giáo viên về Phật giáo tại nhiều trường công ở Úc châu không phải là giảng sư của các giáo hội.

Sau đây là bản Việt dịch, dựa vào bài viết của phóng viên Samantha Turnbull trong bản tin Anh văn “Buddhism scripture teachers struggling to keep up with demand from state schools” (Không tìm đủ các giáo viên Phật giáo để đáp ứng nhu cầu của các trường công lập) trên thông tấn nhà nước Úc Châu ABC North Coast ngày 14/12/2016.

Phật pháp ứng dụng Úc châu và phật giáo

Các trường công lập tại bang New South Wales không đáp ứng đủ nhu cầu tìm các giáo viên Phật giáo.

Brian White, Chủ tịch Buddhist Council of New South Wales (Hội Đồng Phật Giáo ở New South Wales), nói rằng có hơn 3,000 học sinh trường công trong tiểu bang này đang học về Đạo Phật, và con số này đang tăng nhanh chóng.

Ông White nói, “Làn sóng tìm học Phật giáo được thúc đẩy bởi một số tình hình – trong xã hội ngày càng nhiều người biết về thiền tập và biết về lợi ích thiền tập, và đã nhận ra rằng ngay cả các em mới 6 tuổi và 7 tuổi cũng có thể tập thiền trong vài phút đồng hồ, và hưởng được lợi ích từ đó.”

“Nhưng tự thân Phật giáo cũng có một hình ảnh khá tốt đẹp trong xã hội vì là một nếp sống hòa bình và thực dụng.”

Ông White nói rằng hội đồng BCNSW, nơi đào tạo các giáo viên dạy về kinh điển Phật giáo, đã có 70 giáo viên đang tình nguyện trong các trường công ở New South Wales, nhưng đang cần thêm ít nhất 60 giáo viên nữa.

Ông nói, “Chúng tôi có một danh sách các trường khắp trong tiểu bang đang chờ có giáo viên, và chúng tôi đang được nhiều trường khác liên tục thông báo rằng họ cần các giáo viên Phật giáo cho các lớp của họ.”

Một trong các trường đang có nhu cầu cao cho các lớp dạy về Phật giáo là trường Byron Bay Public ở phía bắc New South Wales.

Hơn 150 học sinh ghi danh học về Phật giáo ở trường này, như thế là hơn ¼ tổng số học sinh.

Emily Coleling, người điều hợp chương trình, đã đăng lời kêu gọi trong các thư gửi phụ huynh để tìm thêm các giáo viên thiện nguyện để đáp ứng nhu cầu học Phật.

Bà nói, “Tôi nghĩ rằng có lẽ chúng ta đang ở trong một khu vực có đầu óc cởi mở, vùng Northern Rivers, và Phật giáo là một tôn giáo lan rộng nhanh chóng.”

“Tôi nghĩ rằng nhiều người bất như ý đang rời bỏ Thiên Chúa Giáo vì lý do nào đó, và Phật giáo như dường cung cấp những gì đó cho họ.

“Thực tế, nhiều trẻ em đã học luân chuyển về các tôn giáo khác nhau, do vậy Phật giáo là một trong các tôn giáo các em học, rồi các em có thể học về đạo Ba'hai hay về Thiên Chúa Giáo hay về đạo đức học, và rồi các em có thể tự lựa chọn – như thế đã cho thấy chính các phụ huynh trong khu vực này cũng có đầu óc cởi mở.”

Anna Halafoff, giáo sư về xã hội học về tôn giáo tại đại học Deakin University, nói rằng những con số từ thống kê năm 2011 cho thấy Phật giáo là tôn giáo lớn thứ nhì tại Úc châu, chỉ sau Thiên Chúa Giáo.

Tiến sĩ Halafoff nói, “Có nhiều người đã xin quy y vào Phật giáo, hay là những người thực tập điều mà một số học giả gọi là ‘Đạo Phật kệ sách’, tức là bạn có thể không nói rằng bạn là Phật tử nhưng bạn có thể ưa thích thiền tập, hay bạn có thể ưa thích đọc sách của Đức Đạt Lai Lạt Ma.”

“Tôi nghĩ rằng Phật giáo được ưa thích nhiều tại Úc châu, và tôi nghĩ một phần là do hình ảnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma được nhìn tích cực tại Úc châu.”

Tiến sĩ Halafoff cũng nói rằng nỗi thất vọng với tôn giáo dòng chính Tây Phương đã làm nhiều người ưa thích Phật giáo.

Bà nói, “Chúng ta biết rằng tôn giáo dòng chính đang bị chỉ trích bởi các cá nhân và cả các tổ chức – chúng ta đã có những chuyện xảy ra như Royal Commission [ám chỉ cuộc điều tra của ủy ban này về lạm dụng trẻ em].”

“Chúng ta biết rằng người ta bây giờ được thu hút tới theo cách riêng của họ về tôn giáo, người ta ưa thích lựa ra và chọn lấy và kết hợp những yếu tố khác nhau".

“Có nhiều yếu tố giải thích về lý do tại sao người ta có thể rời Thiên Chúa Giáo dòng chính, và cũng có thể được thu hút tới các tôn giáo khác, nhưng cũng có thể sẽ không theo tôn giáo nào cả.”

Quy định về giảng dạy tôn giáo trong các trường công khác nhau tùy các tiểu bang ở Úc châu, như trường hợp Victoria đã gỡ bỏ tiết học về tôn giáo ra khỏi học trình đầu năm nay.

Tuy nhiên, Cecilia Mitra, Chủ tịch Federa-tion of Australian Buddhist Councils (Liên đoàn Các Hội đồng Phật giáo Úc châu), nói rằng nhu cầu giáo viên tại New South Wales có thể sẽ thấy tương tự khắp Úc châu nếu Phật giáo được dạy ở tất cả các trường công.

Bà Mitra nói, “Có nhiều sự ưa thích tìm học về Phật giáo, tuy nhiên môn học Special Reli-gious Education, chỉ có 30 phút mỗi tuần và còn tùy quyết định của Hiệu trưởng, như tại Tây Úc chẳng hạn, không có bao nhiêu tiết học Phật giáo trong các trường.”

“Các hiệu trưởng không liên lạc tới các trung tâm Phật giáo, và đối với tôi, học các tôn giáo khác nhau sẽ rất là quan trọng trong các trường học.”

Tiến sĩ Halafoff nói rằng nhu cầu học Phật giáo có thể thực sự dẫn tới lý luận nghịch lại việc giữ các tiết học tôn giáo trong trường.

Bà nói, “Trong một hệ thống lý tưởng, với chương trình học về các tôn giáo, bạn có thể muốn cung cấp 8 hay 9 lựa chọn cho tất cả các trường ở Úc châu để người ta thực sự có thể lựa chọn. Nhưng lại không thể làm như thế ở mọi nơi. Vấn đề chính là, và chúng ta đang thấy nơi đây rằng, đối với các tổ chức tôn giáo thiểu số, họ không đủ lực đào tạo nhân sự cho nhiều chương trình này.”

“Thế là bạn gặp một lý luận vòng tròn, dẫn tới điểm ban đầu là, có thể sẽ tốt hơn cho tất cả học sinh Úc châu có một cơ hội để học về tất cả các tín ngưỡng đa dạng và các quan điểm không-tôn-giáo “Trong một ý nghĩa, nơi đó phải là việc giáo dục các em về các tín ngưỡng, chớ không phải là dẫn dắt truyền giáo – và ý nghĩa này thực sự gắn vào học trình các trường và được dạy bởi các giáo viên có năng lực.”

Xem thêm:

Úc châu và phật giáo

Đạo Phật đang phát triển nhanh chóng tại Úc Châu, nơi các Hội đồng Phật giáo không kịp đào tạo các giáo viên thiện nguyện cho các trường công để đáp ứng làn sóng học sinh muốn tìm học về tôn giáo hòa bình này. 

Nhiều trường công lập Úc châu có tiết học dài 30 phút về tôn giáo, trên nguyên tắc không phải là truyền giáo nhưng là giúp tìm hiểu về tín ngưỡng của nhân loại, và học sinh có quyền lựa chọn để học một hay nhiều tôn giáo, hoặc chỉ học thuần túy về đạo đức học. Do vậy, giáo viên về Phật giáo tại nhiều trường công ở Úc châu không phải là giảng sư của các giáo hội.

Sau đây là bản Việt dịch, dựa vào bài viết của phóng viên Samantha Turnbull trong bản tin Anh văn “Buddhism scripture teachers struggling to keep up with demand from state schools” (Không tìm đủ các giáo viên Phật giáo để đáp ứng nhu cầu của các trường công lập) trên thông tấn nhà nước Úc Châu ABC North Coast ngày 14/12/2016.

Phật pháp ứng dụng Úc châu và phật giáo

Các trường công lập tại bang New South Wales không đáp ứng đủ nhu cầu tìm các giáo viên Phật giáo.

Brian White, Chủ tịch Buddhist Council of New South Wales (Hội Đồng Phật Giáo ở New South Wales), nói rằng có hơn 3,000 học sinh trường công trong tiểu bang này đang học về Đạo Phật, và con số này đang tăng nhanh chóng.

Ông White nói, “Làn sóng tìm học Phật giáo được thúc đẩy bởi một số tình hình – trong xã hội ngày càng nhiều người biết về thiền tập và biết về lợi ích thiền tập, và đã nhận ra rằng ngay cả các em mới 6 tuổi và 7 tuổi cũng có thể tập thiền trong vài phút đồng hồ, và hưởng được lợi ích từ đó.”

“Nhưng tự thân Phật giáo cũng có một hình ảnh khá tốt đẹp trong xã hội vì là một nếp sống hòa bình và thực dụng.”

Ông White nói rằng hội đồng BCNSW, nơi đào tạo các giáo viên dạy về kinh điển Phật giáo, đã có 70 giáo viên đang tình nguyện trong các trường công ở New South Wales, nhưng đang cần thêm ít nhất 60 giáo viên nữa.

Ông nói, “Chúng tôi có một danh sách các trường khắp trong tiểu bang đang chờ có giáo viên, và chúng tôi đang được nhiều trường khác liên tục thông báo rằng họ cần các giáo viên Phật giáo cho các lớp của họ.”

Một trong các trường đang có nhu cầu cao cho các lớp dạy về Phật giáo là trường Byron Bay Public ở phía bắc New South Wales.

Hơn 150 học sinh ghi danh học về Phật giáo ở trường này, như thế là hơn ¼ tổng số học sinh.

Emily Coleling, người điều hợp chương trình, đã đăng lời kêu gọi trong các thư gửi phụ huynh để tìm thêm các giáo viên thiện nguyện để đáp ứng nhu cầu học Phật.

Bà nói, “Tôi nghĩ rằng có lẽ chúng ta đang ở trong một khu vực có đầu óc cởi mở, vùng Northern Rivers, và Phật giáo là một tôn giáo lan rộng nhanh chóng.”

“Tôi nghĩ rằng nhiều người bất như ý đang rời bỏ Thiên Chúa Giáo vì lý do nào đó, và Phật giáo như dường cung cấp những gì đó cho họ.

“Thực tế, nhiều trẻ em đã học luân chuyển về các tôn giáo khác nhau, do vậy Phật giáo là một trong các tôn giáo các em học, rồi các em có thể học về đạo Ba'hai hay về Thiên Chúa Giáo hay về đạo đức học, và rồi các em có thể tự lựa chọn – như thế đã cho thấy chính các phụ huynh trong khu vực này cũng có đầu óc cởi mở.”

Anna Halafoff, giáo sư về xã hội học về tôn giáo tại đại học Deakin University, nói rằng những con số từ thống kê năm 2011 cho thấy Phật giáo là tôn giáo lớn thứ nhì tại Úc châu, chỉ sau Thiên Chúa Giáo.

Tiến sĩ Halafoff nói, “Có nhiều người đã xin quy y vào Phật giáo, hay là những người thực tập điều mà một số học giả gọi là ‘Đạo Phật kệ sách’, tức là bạn có thể không nói rằng bạn là Phật tử nhưng bạn có thể ưa thích thiền tập, hay bạn có thể ưa thích đọc sách của Đức Đạt Lai Lạt Ma.”

“Tôi nghĩ rằng Phật giáo được ưa thích nhiều tại Úc châu, và tôi nghĩ một phần là do hình ảnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma được nhìn tích cực tại Úc châu.”

Tiến sĩ Halafoff cũng nói rằng nỗi thất vọng với tôn giáo dòng chính Tây Phương đã làm nhiều người ưa thích Phật giáo.

Bà nói, “Chúng ta biết rằng tôn giáo dòng chính đang bị chỉ trích bởi các cá nhân và cả các tổ chức – chúng ta đã có những chuyện xảy ra như Royal Commission [ám chỉ cuộc điều tra của ủy ban này về lạm dụng trẻ em].”

“Chúng ta biết rằng người ta bây giờ được thu hút tới theo cách riêng của họ về tôn giáo, người ta ưa thích lựa ra và chọn lấy và kết hợp những yếu tố khác nhau".

“Có nhiều yếu tố giải thích về lý do tại sao người ta có thể rời Thiên Chúa Giáo dòng chính, và cũng có thể được thu hút tới các tôn giáo khác, nhưng cũng có thể sẽ không theo tôn giáo nào cả.”

Quy định về giảng dạy tôn giáo trong các trường công khác nhau tùy các tiểu bang ở Úc châu, như trường hợp Victoria đã gỡ bỏ tiết học về tôn giáo ra khỏi học trình đầu năm nay.

Tuy nhiên, Cecilia Mitra, Chủ tịch Federa-tion of Australian Buddhist Councils (Liên đoàn Các Hội đồng Phật giáo Úc châu), nói rằng nhu cầu giáo viên tại New South Wales có thể sẽ thấy tương tự khắp Úc châu nếu Phật giáo được dạy ở tất cả các trường công.

Bà Mitra nói, “Có nhiều sự ưa thích tìm học về Phật giáo, tuy nhiên môn học Special Reli-gious Education, chỉ có 30 phút mỗi tuần và còn tùy quyết định của Hiệu trưởng, như tại Tây Úc chẳng hạn, không có bao nhiêu tiết học Phật giáo trong các trường.”

“Các hiệu trưởng không liên lạc tới các trung tâm Phật giáo, và đối với tôi, học các tôn giáo khác nhau sẽ rất là quan trọng trong các trường học.”

Tiến sĩ Halafoff nói rằng nhu cầu học Phật giáo có thể thực sự dẫn tới lý luận nghịch lại việc giữ các tiết học tôn giáo trong trường.

Bà nói, “Trong một hệ thống lý tưởng, với chương trình học về các tôn giáo, bạn có thể muốn cung cấp 8 hay 9 lựa chọn cho tất cả các trường ở Úc châu để người ta thực sự có thể lựa chọn. Nhưng lại không thể làm như thế ở mọi nơi. Vấn đề chính là, và chúng ta đang thấy nơi đây rằng, đối với các tổ chức tôn giáo thiểu số, họ không đủ lực đào tạo nhân sự cho nhiều chương trình này.”

“Thế là bạn gặp một lý luận vòng tròn, dẫn tới điểm ban đầu là, có thể sẽ tốt hơn cho tất cả học sinh Úc châu có một cơ hội để học về tất cả các tín ngưỡng đa dạng và các quan điểm không-tôn-giáo “Trong một ý nghĩa, nơi đó phải là việc giáo dục các em về các tín ngưỡng, chớ không phải là dẫn dắt truyền giáo – và ý nghĩa này thực sự gắn vào học trình các trường và được dạy bởi các giáo viên có năng lực.”

Xem thêm:
Đọc thêm..
Người đệ tử Phật đều tin hiểu Tam bảo là ruộng phước tốt lành ở thế gian. Gieo trồng công đức, phước báo với Tam bảo là pháp tu phổ biến, là căn lành cho tất cả những người con Phật. Nên quy kính Tam bảo, phụng hành Tam bảo, nương theo ánh sáng Tam bảo soi đường  pháp tu căn bản cho người sơ cơ mới vào đạo nhưng đồng thời cũng xuyên suốt trong pháp hành của các bậc Thánh giả thú hướng Niết-bàn.

Lộ trình căn bản của người tu Phật là từng bước thành tựu phước và trí. Đức Phật là bậc phước trí tròn đầy. Hàng đệ tử Phật thì trọn đời tinh cần vun bồi phước đức và trí tuệ.

Trong các thiện pháp mà người đệ tử Phật thực thi trong đời sống hàng ngày thì gieo trồng thiện căn công đức nơi Tam bảo là thù thắng nhất.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

- Có ba căn lành chẳng thể cùng tận, tiến dần đến Niết-bàn. Thế nào là ba? Nghĩa là trồng công đứcở Như Lai, căn lành này chẳng thể cùng tận. Trồng công đức ở Chánh  pháp, căn  lành này  chẳng thể cùng tận. Trồng công đức ở Thánh chúng, căn lành này chẳng thể cùng tận. Đó là, này A -nan, ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn. Thế nên, này A-nan, hãy cầu phương tiện thâu được phước chẳng  thể cùng tận này. Như  thế, A-nan, hãy học điều này! Bấy giờ Tôn  giả A-nan  nghe  Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.”

Phật pháp ứng dụng ba căn lành chẳng thể cùng tận


“Trồng công đức ở Như Lai, căn lành này chẳng thể cùng tận.” Đức Phật là bậc Giác ngộ, phước trí nhị nghiêm, bi trí viên mãn. Đức Phật ra đời đã mở ra con đường tỉnh thức cho chúng sinh thiết lập hạnh phúc, an lạc nơi đời này và những đời sau. 

Nên kính lễ Phật, cúng dường Phật, tán dương ca ngợi Phật, tôn tạo và bảo vệ kim thân Phật luôn hiện hữu ở thế gian, phát nguyện tu tập cho đếnngày thành Phật…, là trồng công đức ở Như Lai.

“Trồng công đức ở Chánh pháp, căn lành này chẳng thể cùng tận.” Tuy Đức Phật đã Niết-bàn nhưng Pháp bảo vẫn còn (Pháp bảo còn thì Đức Phật vẫn hiện hữu ở thế gian). Pháp  âm của Phật vẫn đồng vọng cho đến ngày nay, lưu xuất từ ba tạng Kinh-Luật-Luận.

Người đệ tử Phật nguyện đi theo Ngài thì phải nương tựa Chánh pháp. Học tập, tìm hiểu, nghiên cứu, trì tụng, ấn tống, giảng giải, xiển dương, ứng dụng thực hành…lời Phật dạy, là trồng công đức ở Chánh pháp.

“Trồng công đức ở Thánh chúng, căn lành này chẳng thể cùng tận.” Thánh chúng đây không có nghĩa là hội chúng toàn các bậc Thánh  chính là Tăng đoàn thanh tịnh 
và hòa hợp. Dĩ  nhiên, một vị Tăng thì không phải Thánh chúng,  nơi nào mà chư Tăng không thanh tịnh, hòa hợp thì nơi ấy không hiện hữu Thánh chúng. Thực tế tu học hiện nay, những hội chúng xuất gia đạt chuẩn Thánh chúng vốn không nhiều nhưng
không phải là không có.

Nói cách khác, những hội chúng nào có tu tập và thành tựu Giới-Định-Tuệ chính là ruộng phước phì nhiêu để chúng ta gieo trồng công  đức. Tăng bảo có vai trò rất quan trọng, nhờ Tăng bảo tận lực hoằng hóa mà Tam bảo mới trường tồn ở thế gian. Kính lễ, cúng  dường, hộ trì, vâng theo sự hướng  dẫn, nguyện nối gót tu học theo chư Tăng, là trồng công đức ở Thánh chúng.  

Rõ ràng, gieo trồng công  đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn.” Người đệ tử Phật cần hiểu rõ về phước báo và công đức hộ trì Tam bảo để thực thi nhằm lợi mình và lợi người, góp phần kiến tạo thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.

Xem thêm:

Ba căn lành chẳng thể cùng tận

Người đệ tử Phật đều tin hiểu Tam bảo là ruộng phước tốt lành ở thế gian. Gieo trồng công đức, phước báo với Tam bảo là pháp tu phổ biến, là căn lành cho tất cả những người con Phật. Nên quy kính Tam bảo, phụng hành Tam bảo, nương theo ánh sáng Tam bảo soi đường  pháp tu căn bản cho người sơ cơ mới vào đạo nhưng đồng thời cũng xuyên suốt trong pháp hành của các bậc Thánh giả thú hướng Niết-bàn.

Lộ trình căn bản của người tu Phật là từng bước thành tựu phước và trí. Đức Phật là bậc phước trí tròn đầy. Hàng đệ tử Phật thì trọn đời tinh cần vun bồi phước đức và trí tuệ.

Trong các thiện pháp mà người đệ tử Phật thực thi trong đời sống hàng ngày thì gieo trồng thiện căn công đức nơi Tam bảo là thù thắng nhất.

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

- Có ba căn lành chẳng thể cùng tận, tiến dần đến Niết-bàn. Thế nào là ba? Nghĩa là trồng công đứcở Như Lai, căn lành này chẳng thể cùng tận. Trồng công đức ở Chánh  pháp, căn  lành này  chẳng thể cùng tận. Trồng công đức ở Thánh chúng, căn lành này chẳng thể cùng tận. Đó là, này A -nan, ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn. Thế nên, này A-nan, hãy cầu phương tiện thâu được phước chẳng  thể cùng tận này. Như  thế, A-nan, hãy học điều này! Bấy giờ Tôn  giả A-nan  nghe  Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.”

Phật pháp ứng dụng ba căn lành chẳng thể cùng tận


“Trồng công đức ở Như Lai, căn lành này chẳng thể cùng tận.” Đức Phật là bậc Giác ngộ, phước trí nhị nghiêm, bi trí viên mãn. Đức Phật ra đời đã mở ra con đường tỉnh thức cho chúng sinh thiết lập hạnh phúc, an lạc nơi đời này và những đời sau. 

Nên kính lễ Phật, cúng dường Phật, tán dương ca ngợi Phật, tôn tạo và bảo vệ kim thân Phật luôn hiện hữu ở thế gian, phát nguyện tu tập cho đếnngày thành Phật…, là trồng công đức ở Như Lai.

“Trồng công đức ở Chánh pháp, căn lành này chẳng thể cùng tận.” Tuy Đức Phật đã Niết-bàn nhưng Pháp bảo vẫn còn (Pháp bảo còn thì Đức Phật vẫn hiện hữu ở thế gian). Pháp  âm của Phật vẫn đồng vọng cho đến ngày nay, lưu xuất từ ba tạng Kinh-Luật-Luận.

Người đệ tử Phật nguyện đi theo Ngài thì phải nương tựa Chánh pháp. Học tập, tìm hiểu, nghiên cứu, trì tụng, ấn tống, giảng giải, xiển dương, ứng dụng thực hành…lời Phật dạy, là trồng công đức ở Chánh pháp.

“Trồng công đức ở Thánh chúng, căn lành này chẳng thể cùng tận.” Thánh chúng đây không có nghĩa là hội chúng toàn các bậc Thánh  chính là Tăng đoàn thanh tịnh 
và hòa hợp. Dĩ  nhiên, một vị Tăng thì không phải Thánh chúng,  nơi nào mà chư Tăng không thanh tịnh, hòa hợp thì nơi ấy không hiện hữu Thánh chúng. Thực tế tu học hiện nay, những hội chúng xuất gia đạt chuẩn Thánh chúng vốn không nhiều nhưng
không phải là không có.

Nói cách khác, những hội chúng nào có tu tập và thành tựu Giới-Định-Tuệ chính là ruộng phước phì nhiêu để chúng ta gieo trồng công  đức. Tăng bảo có vai trò rất quan trọng, nhờ Tăng bảo tận lực hoằng hóa mà Tam bảo mới trường tồn ở thế gian. Kính lễ, cúng  dường, hộ trì, vâng theo sự hướng  dẫn, nguyện nối gót tu học theo chư Tăng, là trồng công đức ở Thánh chúng.  

Rõ ràng, gieo trồng công  đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn.” Người đệ tử Phật cần hiểu rõ về phước báo và công đức hộ trì Tam bảo để thực thi nhằm lợi mình và lợi người, góp phần kiến tạo thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng đôi dòng tưởng niệm

Khóa Tư trường Đại Học Vạn Hạnh 
Sinh viên Tăng Sĩ tháng ngày qua 
Nghe tin từ Oklahoma
Thầy Đức Trí cao đăng Phật quốc. 

Nhớ khi Thầy học chung một lớp 
Gặp nhau trên đất hứa Hoa Kỳ 
Chùa Tam Bảo Thầy nhận trụ trì 
Bao năm tháng với lòng tận tụy. 

Thầy thuyết Pháp với tâm hoan hỷ
Hoằng dương chánh Pháp độ chúng sinh 
Giúp nhiều người hiểu đạo chân tình
Vô thường đến thầy đi tự tại. 

Như áng mây thong dong mọi nẻo 
Bồ-đề quyến thuộc khắp muôn nơi 
Trưởng tử Như Lai sống cuộc đời
Góp phần đạo Phật thêm hương sắc. 

Tình Pháp lữ đồng tu vững chắc 
Lạy Tam Bảo thành kính nguyện cầu 
Thầy trở lại Ta-bà nhiệm mầu
Để giúp đời vơi đi đau khổ. 

Nam Mô Phật Thích Ca Mâu Ni 
Nam Mô Pháp hiện hữu từ bi 
Nam Mô Tăng một lòng chứng tri 
Vô thường đến Thầy đi an bình.

Xem thêm:

Đôi dòng tưởng niệm

Phật pháp ứng dụng đôi dòng tưởng niệm

Khóa Tư trường Đại Học Vạn Hạnh 
Sinh viên Tăng Sĩ tháng ngày qua 
Nghe tin từ Oklahoma
Thầy Đức Trí cao đăng Phật quốc. 

Nhớ khi Thầy học chung một lớp 
Gặp nhau trên đất hứa Hoa Kỳ 
Chùa Tam Bảo Thầy nhận trụ trì 
Bao năm tháng với lòng tận tụy. 

Thầy thuyết Pháp với tâm hoan hỷ
Hoằng dương chánh Pháp độ chúng sinh 
Giúp nhiều người hiểu đạo chân tình
Vô thường đến thầy đi tự tại. 

Như áng mây thong dong mọi nẻo 
Bồ-đề quyến thuộc khắp muôn nơi 
Trưởng tử Như Lai sống cuộc đời
Góp phần đạo Phật thêm hương sắc. 

Tình Pháp lữ đồng tu vững chắc 
Lạy Tam Bảo thành kính nguyện cầu 
Thầy trở lại Ta-bà nhiệm mầu
Để giúp đời vơi đi đau khổ. 

Nam Mô Phật Thích Ca Mâu Ni 
Nam Mô Pháp hiện hữu từ bi 
Nam Mô Tăng một lòng chứng tri 
Vô thường đến Thầy đi an bình.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng đây đó mùa xuân

PHẢI ĐÂU!
Giữa bộn bề cuộc sống
Đời vùi giấc ngủ xuân
Ta đi giữa Thực-Mộng
Mắt nhìn không phân vân.

ĐỜI SỬA SOẠN
Bao sắc màu diễm lệ
Đoạn trường cuộc rong chơi
Đất trời Xuân... như thế!
Tình nguyên sơ đất trời.

ĐỜI KHUYA
Ký ức bộn bề đã tắt
Chợt ra, dừng cuộc chiêm bao
Nẻo về từ trong tầm mắt
Gặp ta từ buổi xuân nào.

TRONG ĐẦM
Con trâu trầm dưới nước
Quẩy đuôi hạnh phúc đời
Thong thả mồm nhai cỏ
Mùa xuân nào qua tôi

CON ONG
Ruỗi dong tìm hương mật
Xây tổ kết mùa hương
Đi giữa đời bẩn chật
Kết ngàn hoa xuân phương.

CUỐI TRỜI HOÀNG HÔN
Xuân về bên bờ cỏ
Sương qua bãi rêu cồn
Đời qua bao hỷ lạc
Về cuối trời hoàng hôn.

XUÂN VỀ
Phong trần say mấy độ
Bạc phếch áo vai đời
Thu về xanh tiếng nhạn
Xuân về hoa cỏ tươi.

MẶT ĐẤT
Trời mùa xuân chim gọi
Mở đường sinh loại đi
Chở chuyên đời muôn lối
Thơm ý đạo Từ Bi.

PHẬT TỌA
Yên bình đỉnh non cao vút
Mây chở mùa xuân hào quang
Cho cả tâm hồn cát bụi
Đâu đâu cũng Phật, Niết Bàn.

Xem thêm:

Đây đó mùa xuân

Phật pháp ứng dụng đây đó mùa xuân

PHẢI ĐÂU!
Giữa bộn bề cuộc sống
Đời vùi giấc ngủ xuân
Ta đi giữa Thực-Mộng
Mắt nhìn không phân vân.

ĐỜI SỬA SOẠN
Bao sắc màu diễm lệ
Đoạn trường cuộc rong chơi
Đất trời Xuân... như thế!
Tình nguyên sơ đất trời.

ĐỜI KHUYA
Ký ức bộn bề đã tắt
Chợt ra, dừng cuộc chiêm bao
Nẻo về từ trong tầm mắt
Gặp ta từ buổi xuân nào.

TRONG ĐẦM
Con trâu trầm dưới nước
Quẩy đuôi hạnh phúc đời
Thong thả mồm nhai cỏ
Mùa xuân nào qua tôi

CON ONG
Ruỗi dong tìm hương mật
Xây tổ kết mùa hương
Đi giữa đời bẩn chật
Kết ngàn hoa xuân phương.

CUỐI TRỜI HOÀNG HÔN
Xuân về bên bờ cỏ
Sương qua bãi rêu cồn
Đời qua bao hỷ lạc
Về cuối trời hoàng hôn.

XUÂN VỀ
Phong trần say mấy độ
Bạc phếch áo vai đời
Thu về xanh tiếng nhạn
Xuân về hoa cỏ tươi.

MẶT ĐẤT
Trời mùa xuân chim gọi
Mở đường sinh loại đi
Chở chuyên đời muôn lối
Thơm ý đạo Từ Bi.

PHẬT TỌA
Yên bình đỉnh non cao vút
Mây chở mùa xuân hào quang
Cho cả tâm hồn cát bụi
Đâu đâu cũng Phật, Niết Bàn.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng một thời cùng hiện

Đêm giao thừa. Khu xóm tĩnh lặng. Gió lùa qua vườn sau làm lay động những giò phong lan đã mãn khai hoặc còn chớm nụ. Những ngọn đèn đường kiên trì đứng giữa trời sương. Cây bạch đàn đong đưa nhẹ những cành lá trổ đầy hoa. Sương kéo xuống, hơi lạnh ùa vào cửa sổ để hé. Chung trà độc ẩm, nguội thật nhanh trong khi ánh nến lung linh, ấm cúng và khói hương lặng lờ tỏa trong điện Phật.

Trở về với thực tại. Thực tại là đâu? Là giây phút đương hiện, hiện tiền, ngay ở nơi chốn nầy. Nhà thiền gọi là “bây giờ và ở đây.” Thuật ngữ dùng lâu, dùng nhiều, dùng quen, dùng bất cứ ở đâu, dùng bất cứ thời gian nào, đã trở thành sáo ngữ. Có một người để tâm vào hơi thở, đặt tâm vào thân, đặt thân vào nơi chốn và thời gian hiện tại. 

Có một người như thế hiện hữu trong thời gian và không gian đương hiện hay không? Tâm và thân là một hay hai? Tâm và hơi thở là một hay hai? Hơi thở và thân là một hay hai? Nơi chốn và thời gian là một hay hai? Có một người hay hai người, hoặc nhiều người khác đang cùng hiện hữu trong nơi chốn và thời gian đương hiện hay không? 

Có sự nhận thức về sự hiện hữu của chính mình cùng lúc với sự hiện hữu của nhiều người khác trong cùng thời gian và nơi chốn hiện tại hay không? Có sự nhận thức chung của tất cả mọi người trong cùng một lúc, một nơi chốn hay không? Nghĩa là mọi người đều biết, ngay nơi giây phút và nơi chốn hiện tại nầy, có mình và người khác, đang ngồi cùng nhau, mỗi người một chung trà uống trong yên lặng, hoặc đang thực hành một khóa lễ tụng kinh theo nghi thức, hoặc đang tuần tự ngồi xuống trên những bồ đoàn đã được sắp xếp ngay ngắn nơi thiền đường. 

Thực tại đang diễn ra như thế. Có một người và nhiều người đang đặt thân và tâm vào cái đương hiện. Có một sự trình diễn, của một người hay nhiều người, theo thứ tự ngăn nắp của thời gian và không gian, không ai muốn làm trái ngược cái trật tự đã được sắp sẵn từ ngày hôm qua và những ngày trước đó, và sẽ tạm kết thúc ở tương lai vào giờ giấc đã được qui định. 

Mọi thứ lễ nghi, dù trong hình thức đơn giản nhất, đều được đặt trong một thời khóa biểu, và được thông báo sự khởi đầu hay kết thúc bằng một tiếng chuông hay một tiếng kẻng. Tất cả đều là sự trình diễn của một tập thể nhỏ hoặc lớn, trong cái khung qui định của thời gian và nơi chốn.

Chỉ khi nào không có cá thể hay tập thể đồng lòng làm chung một việc, trong cùng thời gian và nơi chốn; chỉ khi nào không có cá thể hay tập thể tách biệt nhau, mỗi người mỗi ý mỗi việc; chỉ khi nào không có bất cứ sự hiện hữu nào của cá thể và tập thể, bằng thân xác hay tâm thức, dấn mình vào thời khóa biểu của mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, quá khứ, hiện tại, tương lai… thực tại mới là thực tại. 

Một khi chứng nghiệm thực tại nầy, tất cả đồng hiện trong cảnh giới nhất tâm. Trong nhất tâm, không có sai biệt, không có trật tự của thời gian và không gian. Sai biệt chỉ trình hiện khi một cá ngã khởi sự động chuyển. Và trong sự động chuyển, có sự động chuyển từ đại bi tâm, khác với sự động chuyển từ vô minh.

Trong khoảnh khắc, từ sự khởi xuất của đại bi tâm, nhìn ra muôn ngàn thế giới, nhìn ra vạn loại chúng sinh, cùng lúc đồng hiện: nơi kia, có những người đói khát bò lết trên đường tìm kiếm thức ăn, nơi đây có những người no đủ, thừa mứa, vất bỏ cao lương vào thùng rác; nơi kia có những người co ro, không đủ áo quần và củi lửa sưởi ấm trước cơn giá lạnh, nơi đây có những người chăn êm nệm ấm, hạnh phúc vùi mình trong giấc ngủ an bình; nơi kia có những người gào khóc thảm thiết trước sự biệt ly, chết chóc, nơi đây có những người hạnh phúc ôm chầm lấy nhau trong yêu thương tương ngộ… 

Chiến tranh, thiên tai, tật bệnh, khủng bố, kỳ thị, đàn áp, cướp bóc, tù đày… khiến cho hàng triệu người thống khổ trên khắp các châu lục, không ngoại trừ một xứ sở nào, dù là quốc gia thịnh vượng tự do nhất. Người ta tìm cách thiết lập lại một trật tự nào đó trong sự rối tung, hỗn loạn của những hệ thống, chính sách chồng xéo, đan bện vào nhau, mà không nhận thức được rằng căn nguyên của hỗn loạn chính là từ sự khởi động của vô minh; và chính vô minh đã bày vẽ ra cảnh giới của mâu thuẫn, loạn động, bất thường, khổ đau. Vô minh còn, thống khổ còn.

Thống khổ không biết khi nào và nơi đâu sẽ cùng tận; nhưng người hành đạo cứu khổ, như quáng nắng bên đường, như sương xuân trên cỏ, như bọt nước lăn tăn đầu ngọn sóng, như ráng chiều tím ngát trời tây phương, lặng lẽ bước đi trên dặm dài không vết tích. Con đường vô tận trải theo thống khổ bất tận. Không ngừng nghỉ. Không mỏi mệt. Âm thầm đi mãi trong vô tận thời gian, vô biên trú xứ…

Đêm trừ tịch đã qua. Nhìn ra cửa sổ vẫn thấy những trụ điện sừng sững vươn lên giữa trời sương. Bầy chim sẻ cất tiếng líu lo nơi cây bạch đàn xanh lá. Lòng nhẹ nhàng. Thư thả bước khỏi điện Phật khi mặt trời vừa lên.

Xem thêm:

Một thời cùng hiện

Phật pháp ứng dụng một thời cùng hiện

Đêm giao thừa. Khu xóm tĩnh lặng. Gió lùa qua vườn sau làm lay động những giò phong lan đã mãn khai hoặc còn chớm nụ. Những ngọn đèn đường kiên trì đứng giữa trời sương. Cây bạch đàn đong đưa nhẹ những cành lá trổ đầy hoa. Sương kéo xuống, hơi lạnh ùa vào cửa sổ để hé. Chung trà độc ẩm, nguội thật nhanh trong khi ánh nến lung linh, ấm cúng và khói hương lặng lờ tỏa trong điện Phật.

Trở về với thực tại. Thực tại là đâu? Là giây phút đương hiện, hiện tiền, ngay ở nơi chốn nầy. Nhà thiền gọi là “bây giờ và ở đây.” Thuật ngữ dùng lâu, dùng nhiều, dùng quen, dùng bất cứ ở đâu, dùng bất cứ thời gian nào, đã trở thành sáo ngữ. Có một người để tâm vào hơi thở, đặt tâm vào thân, đặt thân vào nơi chốn và thời gian hiện tại. 

Có một người như thế hiện hữu trong thời gian và không gian đương hiện hay không? Tâm và thân là một hay hai? Tâm và hơi thở là một hay hai? Hơi thở và thân là một hay hai? Nơi chốn và thời gian là một hay hai? Có một người hay hai người, hoặc nhiều người khác đang cùng hiện hữu trong nơi chốn và thời gian đương hiện hay không? 

Có sự nhận thức về sự hiện hữu của chính mình cùng lúc với sự hiện hữu của nhiều người khác trong cùng thời gian và nơi chốn hiện tại hay không? Có sự nhận thức chung của tất cả mọi người trong cùng một lúc, một nơi chốn hay không? Nghĩa là mọi người đều biết, ngay nơi giây phút và nơi chốn hiện tại nầy, có mình và người khác, đang ngồi cùng nhau, mỗi người một chung trà uống trong yên lặng, hoặc đang thực hành một khóa lễ tụng kinh theo nghi thức, hoặc đang tuần tự ngồi xuống trên những bồ đoàn đã được sắp xếp ngay ngắn nơi thiền đường. 

Thực tại đang diễn ra như thế. Có một người và nhiều người đang đặt thân và tâm vào cái đương hiện. Có một sự trình diễn, của một người hay nhiều người, theo thứ tự ngăn nắp của thời gian và không gian, không ai muốn làm trái ngược cái trật tự đã được sắp sẵn từ ngày hôm qua và những ngày trước đó, và sẽ tạm kết thúc ở tương lai vào giờ giấc đã được qui định. 

Mọi thứ lễ nghi, dù trong hình thức đơn giản nhất, đều được đặt trong một thời khóa biểu, và được thông báo sự khởi đầu hay kết thúc bằng một tiếng chuông hay một tiếng kẻng. Tất cả đều là sự trình diễn của một tập thể nhỏ hoặc lớn, trong cái khung qui định của thời gian và nơi chốn.

Chỉ khi nào không có cá thể hay tập thể đồng lòng làm chung một việc, trong cùng thời gian và nơi chốn; chỉ khi nào không có cá thể hay tập thể tách biệt nhau, mỗi người mỗi ý mỗi việc; chỉ khi nào không có bất cứ sự hiện hữu nào của cá thể và tập thể, bằng thân xác hay tâm thức, dấn mình vào thời khóa biểu của mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, quá khứ, hiện tại, tương lai… thực tại mới là thực tại. 

Một khi chứng nghiệm thực tại nầy, tất cả đồng hiện trong cảnh giới nhất tâm. Trong nhất tâm, không có sai biệt, không có trật tự của thời gian và không gian. Sai biệt chỉ trình hiện khi một cá ngã khởi sự động chuyển. Và trong sự động chuyển, có sự động chuyển từ đại bi tâm, khác với sự động chuyển từ vô minh.

Trong khoảnh khắc, từ sự khởi xuất của đại bi tâm, nhìn ra muôn ngàn thế giới, nhìn ra vạn loại chúng sinh, cùng lúc đồng hiện: nơi kia, có những người đói khát bò lết trên đường tìm kiếm thức ăn, nơi đây có những người no đủ, thừa mứa, vất bỏ cao lương vào thùng rác; nơi kia có những người co ro, không đủ áo quần và củi lửa sưởi ấm trước cơn giá lạnh, nơi đây có những người chăn êm nệm ấm, hạnh phúc vùi mình trong giấc ngủ an bình; nơi kia có những người gào khóc thảm thiết trước sự biệt ly, chết chóc, nơi đây có những người hạnh phúc ôm chầm lấy nhau trong yêu thương tương ngộ… 

Chiến tranh, thiên tai, tật bệnh, khủng bố, kỳ thị, đàn áp, cướp bóc, tù đày… khiến cho hàng triệu người thống khổ trên khắp các châu lục, không ngoại trừ một xứ sở nào, dù là quốc gia thịnh vượng tự do nhất. Người ta tìm cách thiết lập lại một trật tự nào đó trong sự rối tung, hỗn loạn của những hệ thống, chính sách chồng xéo, đan bện vào nhau, mà không nhận thức được rằng căn nguyên của hỗn loạn chính là từ sự khởi động của vô minh; và chính vô minh đã bày vẽ ra cảnh giới của mâu thuẫn, loạn động, bất thường, khổ đau. Vô minh còn, thống khổ còn.

Thống khổ không biết khi nào và nơi đâu sẽ cùng tận; nhưng người hành đạo cứu khổ, như quáng nắng bên đường, như sương xuân trên cỏ, như bọt nước lăn tăn đầu ngọn sóng, như ráng chiều tím ngát trời tây phương, lặng lẽ bước đi trên dặm dài không vết tích. Con đường vô tận trải theo thống khổ bất tận. Không ngừng nghỉ. Không mỏi mệt. Âm thầm đi mãi trong vô tận thời gian, vô biên trú xứ…

Đêm trừ tịch đã qua. Nhìn ra cửa sổ vẫn thấy những trụ điện sừng sững vươn lên giữa trời sương. Bầy chim sẻ cất tiếng líu lo nơi cây bạch đàn xanh lá. Lòng nhẹ nhàng. Thư thả bước khỏi điện Phật khi mặt trời vừa lên.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Lễ kính là cội nguồn của Hạnh Phúc. Lễ kính là cội nguồn của văn minh và tiến bộ, thiếu lễ kính là đầu mối của bất hòa, đỗ vỡ.

Thiếu lễ kính là bước vào sai quấy, tàn bạo, sân hận, là thuốc hồi sinh giặc phiền não.


Phật pháp ứng dụng lễ kính

Chuyện Tề Tuyên Vương thăm chơi nhà Nhan Súc được kể dưới đây lột bày được một phần chân nghĩa ấy.

Tề Tuyên Vương một hôm đến nhà Nhan Súc chơi, ngài bảo:

- Súc bước lại đây. Nhan Súc cũng bảo:
- Vua bước lại đây.

Các quan thấy vậy bảo:

- Vua là bậc chí tôn, Súc là kẻ hạ thần. Vua bảo Súc lại đây, Súc cũng bảo Vua lại đây, như thế có nghe được không?

Nhan Súc bảo:

- Vua gọi Súc mà Súc lại, thì ra Súc là người ham mộ quyền thế. Súc gọi vua mà vua lại thì vua lại là người quý trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang tiếng là kẻ ham mộ quyền thế, sao bằng để cho vua được tiếng là biết quý trọng kẻ hiền tài.

Vua nghe lời cao ngạo giận lắm gắt:

- Vua quý hay sĩ quý?
- Sĩ quý, vua không quý.
- Có sách nào nói thế không?
- Tâu có: Ngày trước nước Tần cử quân sang đánh nước Tề có hạ lịnh “Ai dám đến gần mộ Liễu Hạ Huệ mà kiếm củi thì phải tội xử tử.” Lại cũng có lịnh “Ai lấy được đầu vua Tề thì được phong Hầu và thưởng nghìn lạng vàng,” như thế đủ rõ vua quý hay sĩ quý.
Nên rõ: Lễ kính là tôn trọng những giềng mối luân lý trật tự xã hội, chứ không phải luồn lót khúm núm làm mất phẩm cách con người.

Lễ kính không phải chỉ với người trên mà còn với kẻ dưới nữa.
Kẻ dưới không lễ kính với người trên là cao ngạo, không ai ưa. Tai ách có thể đến không ai lường trước được.

Người trên không lễ kính với kẻ dưới là xem khinh lễ kính, chạm tự ái gây bất phục, châm ngòi cho sự bất
tín bất trung, gây bạo phản, kết quả cũng không lường trước được.

Tiền nhân ta xưa có dạy:

“Tiên học lễ, hậu học văn,” là ôm ấp trao truyền cho hậu thế bản hoài thâm diệu ấy vậy.
“Trần thế tranh nhau nói dại khôn
Chẳng ai là dại, chẳng ai khôn...”

Xem thêm:

Lễ Kính

Lễ kính là cội nguồn của Hạnh Phúc. Lễ kính là cội nguồn của văn minh và tiến bộ, thiếu lễ kính là đầu mối của bất hòa, đỗ vỡ.

Thiếu lễ kính là bước vào sai quấy, tàn bạo, sân hận, là thuốc hồi sinh giặc phiền não.


Phật pháp ứng dụng lễ kính

Chuyện Tề Tuyên Vương thăm chơi nhà Nhan Súc được kể dưới đây lột bày được một phần chân nghĩa ấy.

Tề Tuyên Vương một hôm đến nhà Nhan Súc chơi, ngài bảo:

- Súc bước lại đây. Nhan Súc cũng bảo:
- Vua bước lại đây.

Các quan thấy vậy bảo:

- Vua là bậc chí tôn, Súc là kẻ hạ thần. Vua bảo Súc lại đây, Súc cũng bảo Vua lại đây, như thế có nghe được không?

Nhan Súc bảo:

- Vua gọi Súc mà Súc lại, thì ra Súc là người ham mộ quyền thế. Súc gọi vua mà vua lại thì vua lại là người quý trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang tiếng là kẻ ham mộ quyền thế, sao bằng để cho vua được tiếng là biết quý trọng kẻ hiền tài.

Vua nghe lời cao ngạo giận lắm gắt:

- Vua quý hay sĩ quý?
- Sĩ quý, vua không quý.
- Có sách nào nói thế không?
- Tâu có: Ngày trước nước Tần cử quân sang đánh nước Tề có hạ lịnh “Ai dám đến gần mộ Liễu Hạ Huệ mà kiếm củi thì phải tội xử tử.” Lại cũng có lịnh “Ai lấy được đầu vua Tề thì được phong Hầu và thưởng nghìn lạng vàng,” như thế đủ rõ vua quý hay sĩ quý.
Nên rõ: Lễ kính là tôn trọng những giềng mối luân lý trật tự xã hội, chứ không phải luồn lót khúm núm làm mất phẩm cách con người.

Lễ kính không phải chỉ với người trên mà còn với kẻ dưới nữa.
Kẻ dưới không lễ kính với người trên là cao ngạo, không ai ưa. Tai ách có thể đến không ai lường trước được.

Người trên không lễ kính với kẻ dưới là xem khinh lễ kính, chạm tự ái gây bất phục, châm ngòi cho sự bất
tín bất trung, gây bạo phản, kết quả cũng không lường trước được.

Tiền nhân ta xưa có dạy:

“Tiên học lễ, hậu học văn,” là ôm ấp trao truyền cho hậu thế bản hoài thâm diệu ấy vậy.
“Trần thế tranh nhau nói dại khôn
Chẳng ai là dại, chẳng ai khôn...”

Xem thêm:
Đọc thêm..